Author Topic: Tin văn học và sách mới ti iu  (Read 10570 times)

Description:

Offline emsapyeu

  • *
  • Juventini
  • Posts: 864
  • Joined: Oct 2004
  • Thanked: 97
  • Thanks: 96
  • Gender: Female
« on: January 04, 2006, 12:09 PM »
Logged
Alberto Moravia - biểu tượng của văn học ITALIA
 
 Sự diễn đạt của một nghệ sĩ là phương tiện để anh chuyển tải những cảm xúc và ý nghĩ nội tâm. Thật khó mà có thể tưởng tượng được khi quyền diễn đạt ấy của người nghệ sĩ bị tước đoạt. Trong thời kì cầm quyền của chính phủ phát xít Italia do Benito Mussolini đứng đầu, rất nhiều nghệ sỹ nước này đã bị tước đi cái quyền đó. Một trong số họ là nhà văn nổi tiếng theo trường phái hiện thực phê phán Alberto Moravia. Suốt thời kì của Mussolini, Moravia luôn phải sống trong nỗi sợ hãi bị bắt bớ. Hầu hết các tác phẩm của ông bị chính quyền cấm xuất bản vì quan điểm chống chủ nghĩa phát xít. Tuy nhiên, bất chấp vô số những trở ngại phải vượt qua, Moravia vẫn trở thành một trong những nhà văn đáng kính trọng và được yêu mến nhất của Italia.
 
Alberto Moravia sinh ngày 28/11/11907 trong một gia đình Do Thái khá giả. Cha của ông là một kiến trúc sư ở Venice còn mẹ xuất thân từ tầng lớp trung lưu ở Anchora. Từ nhỏ, Moravia đã được học hành đầy đủ, được dạy các thứ tiếng Anh, Đức , Pháp. Tuy nhiên, căn bệnh lao khi đó còn là nan y đã trói Moravia vào giường bệnh trong suốt thời thơ ấu và cho tới tận năm 25 tuổi. Để chống lại sự cô đơn, buồn chán, cậu bé Moravia tìm đến với những tác phẩm văn học. Và những Joyce, Molière, Shakespeare, Boccaccio hay Manoniu đã nhập vào máu của cậu. Moravia tìm thấy trong văn học nguồn sống của cuộc đời và quyết định dấn thân vào sự nghiệp sáng tác. Những tác phẩm của ông đã gây rất nhiều tranh cãi bởi ông chối bỏ nguồn gốc tư sản của gia đình mình đồng thời tạo ra 1 làn sóng chống chủ nghĩa phát xít vốn rất "thịnh" ở Italia thời bấy giờ. Moravia cũng viết nhiều về tình dục vốn bị coi là cấm kị. Ông cho rằng mục đích của tình dục không phải là sinh sản hay là để đem đến khoải cảm mà là thể hiện sự lấn át của người này với người kia. Để chuyển tải những thông điệp trên, trong những tác phẩm của mình, Moravia thường che giấu bản thân, hoặc thể hiện quan điểm chính trị khác . Ví dụ trong II Conformista ( " Người theo chủ nghĩa phục tùng" ) , ông tự miêu tả bản thân như một gián điệp phát xít.

 Cũng trong các tác phẩm, Moravia đánh giá rất cao một vài thuyết triết học nhất định ý niệm về hư vô hay về chất lượng hỗn loạn của thế giới hiện đại, vô tình hay hữu ý, đã biến ông trở thành người theo chủ nghĩa hiện sinh ( Existentialism) đầu tiên ở Italia. Tuy nhiên không giống như Albert Camus và các nhà hiện sinh khác, Moravia đến với ý niệm cuộc sống của mình không phải thông qua triết học mà qua khả năng trực giác. Điều này làm cho các tác phẩm của ông hết sức sâu sắc. Chúng tạo nên một dòng văn học phê phán khác biệt đầy sáng tạo cho thấy những nhận thức của Moravia trước xã hội Italia đầy những bất công, mâu thuẫn nội tại.
                   ( tổng hợp...còn tiếp)
« Last Edit: January 20, 2013, 11:08 PM by PAVELVNR »
Hạnh phúc hay là nỗi đau, đi đến tận cùng cũng chỉ là nước mắt

Offline emsapyeu

  • *
  • Juventini
  • Posts: 864
  • Joined: Oct 2004
  • Thanked: 97
  • Thanks: 96
  • Gender: Female
« Reply #1 on: January 04, 2006, 12:42 PM »
Logged
" Alberto Moravia qua đời năm 1990 do xuất huyết não và cuốn tiểu thuyết cuối cùng của ông ra mắt độc giả năm 1991. Những gì ông đã tạo ra trong hơn 50 năm sáng tác quả là vĩ đại . Ý chí chống chủ nghĩa phát xít mạnh mẽ cùng với những lời cảnh báo về sự thờ ơ, mất phương hướng của con người mà Moravia thể hiện trong các tác phẩm vẫn còn nguyên vẹn giá trị tới ngày nay."

 Tiểu thuyết đầu tay của Moravia, Gli Indifferenti  ( " Thời đại của sự thờ ơ" ) in năm 1925 khi ông mới 18 tuổi. Nhà phê bình văn học nổi tiếng Sergio Pacifici đã nhận xét : " Giống như Quý bà Bovary của Flaubert, Gli Indifferenti vượt ra ngoài những gì mà nó thể hiện. Nó đặt ra những câu hỏi mà những cuốn sách khác , cho dù có cầu kỳ, phức tạp hơn, không nêu ra được. Rõ ràng là thông qua một loạt những sự kiện bình thường, những câu chuyện sáo rỗng, Moravia đã đặt các nhân vật vào 1 tình trạng khủng hoảng . Và thông qua hành vi của họ, ông đặt ra câu hỏi: " Chúng ta sẽ hành động như nào trước thực tế là chẳng có gì trong cuộc sống còn ý nghĩa với chúng ta nữa ? Chúng ta nên xử sự thế nào trong 1 xã hội mà mỗi người đều thấy rất khó khăn, nếu không nói là không thể , chấp nhận sống bên cạnh một đống những niềm tin xã hội, tôn giáo , đạo đức được để lại từ quá khứ ? ". Bằng việc đặt ra những câu hỏi này Moravia có thể chuyển tải được những cảm nhận của ông về gia đình, về tôn giáo, về giai cấp tư sản Italia thời bấy giờ. " Ross và Freed, hai nhà phê bình văn học nổi tiếng khác trong cuốn sách in năm 1972 cũng đã nhận xét về Gli Indifferenti  : " Đây là  cuốn tiểu thuyết vẽ lên bức tranh hiện thực về sự thối nát của giai cấp tư sản Italia thời bấy giờ.Sự thối nát  này được che đậy  bởi những tác phẩm sáo rỗng, giả dối mà các nhà văn theo đuôi  phát xít viết ra. Gli Indifferenti  coi tình dục như 1 nhu cầu sinh lí cơ bản và là 1 trong những hoạt động có ý nghĩa nhất của con người có ý thức."

Gli Indifferenti   được in trong quá trình kí kết Hiệp định  Vidoni Palace giữa 1 bên là đại diện của các tập đoàn phát xít và 1 bên là Hiêp hội công nghiệp Italia. Đây là bước đầu tiên để những kẻ theo chủ nghĩa phát xít tổ chức lại trật tự kinh tế và chính trị theo ý mình. Và vì tác phẩm của Moravia được ra đời giũa thời kì của phát xít nên nó đã thu hút được sự chú ý đông đảo của độc giả bởi những quan điểm chống phát xít của ông. Cuốn sách đã nhanh chóng thành công bởi công chúng Italia đã trở nên ngap ngán những tác phẩm của phát xít và muốn được kiểm nghiệm 1 dạng thể hiện nghệ thuật mới. Thế nhưng những quan điểm chống chính quyền mạnh mẽ , đả phá những cái xấu xa trong xã hội đã khiến cho cả cuộc đời còn lại của Moravia phải khốn đốn.
« Last Edit: January 04, 2006, 12:44 PM by emsapyeu »
Hạnh phúc hay là nỗi đau, đi đến tận cùng cũng chỉ là nước mắt

Offline emsapyeu

  • *
  • Juventini
  • Posts: 864
  • Joined: Oct 2004
  • Thanked: 97
  • Thanks: 96
  • Gender: Female
« Reply #2 on: January 04, 2006, 01:13 PM »
Logged
" Theo dòng hiện thực phê phán, nội dung chính các tác phẩm của Moravia là thể hiện những số phận con người, những mẩu đời buồn tẻ, lạnh nhạt, xa lạ với thế giới xung quanh và xa lại với chính bản thân mình. Các giá trị đạo đức mà nhân loại từng coi là khuôn vàng thước ngọc bị chìm nghỉm trong tiền tài, dục vọng. Và càng chạy theo tiền tài dục vọng con người trong các tác phẩm của Moravia càng thấy cô độc và hoài nghi tất cả. 1 sự hoài nghi vô phương cứu chữa. Lại ngạc ngihên hơn khi biết rằng những tác phẩm hay nhất của Moravia đều ra đời trong thời gian ông nằm trên giường bệnh bởi căn bệnh lao quái ác."

Những quan điểm của Moravia không những thể hiện trong sách của ông mà còn trong những cuộc trả lời phỏng vấn với nhà phê bình Donald Heiney. Ông nói : " Hình thức giáo dục sai lầm nhất là ở nhà. Hầu hết các gia đình Italia chỉ dạy con cái mình những lí luận sáo rỗng, mô phạm về sự thận trọng, khôn ngoan hay kiêu hãnh.. Ngay cả các trường học tồi nhất cũng còn hơn gia đình ." Chính những lời bình luận như vậy cùng với các tiểu thuyết gây tranh cãi của  Moravia đã khiến chính quyền Mussolini gán cho ông cái mác "tiêu cực".
   
Trong suốt thời phát xít, các tác phẩm của Moravia bị cấm đưa ra bình luận trên báo chí. Bản thân ông không được kí tên thật mà chỉ được kí bút danh. Ông luôn sống trong nỗi lo bị bắt giam .Năm 1941 khi cưới bà Elsa Morante là lúc sự khủng bố của chính quyền với Moravia lên đến cao trào. 4 năm liền phải trốn tránh sự săn lùng của chính quyền . Cả ông và vợ đều bị gán cho cái mác " có tư tưởng bạo loạn, lật đổ chính quyền". Hai người chạy đến Fondi, 1 thị trấn nhỏ vùng Ciociara, sống 9 tháng trong 1 cái chuồng lợn. Chính cuộc sống vất vả, tù túng và luôn bị đe doạ như vậy đã tạo cảm hứng cho Moravia sáng tác tiểu thuyết nổi tiếng La Ciociara ( Hai người phụ nữ ). La Ciociara sau này được chuyển thể thành phim rất ăn khách với diễn xuất của diễn viên nổi tiếng Sophia Loren. Mùa đông năm 1943-1944 , Moravia phải sống trong núi, ăn mặc như nông dân để tránh sự truy bắt của quân Đức. Khi trở về Rome, ông đã miêu tả rất thành công những nỗi đau thể xác cũng như tinh thần đã nếm trải trong tiểu thuyết
L' epidemia.

 Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, quyền tự do ngôn luận được khôi phục trong giới nghệ thuật Italia. Moravia lại được sáng tác và làm việc như 1 nhà văn, nhà báo, nhà phê bình phim cho tạp chí L' espresso. Các tác phẩm của ông được xuất bản sau bao năm bị cấm. Được không khí hoà bình tiếp sức, Moravia đã sáng tác liên tục 20 tiểu thuyết, 7 vở kịch. Tác phẩm của ông được dịch ra nhiều thứ tiếng kèm theo đó là những giải thưởng cao quí : Striga năm 1952, Marzott năm 1954. "

Chúng ta cần phải cảm ơn Moravia vì những tác phẩm  của ông đã làm phong phú thêm đời sống văn học Italia, giúp chúng ta nhận thức rõ ràng hơn xã hội hiện đại." ( nhà phê bình văn học Pacifici).
« Last Edit: January 04, 2006, 01:15 PM by emsapyeu »
Hạnh phúc hay là nỗi đau, đi đến tận cùng cũng chỉ là nước mắt

Offline miss1612

  • *
  • Guests of Honour
  • Posts: 132
  • Joined: Dec 2004
  • Thanked: 0
  • Thanks: 4
« Reply #3 on: November 02, 2010, 12:42 PM »
Logged
[!--quoteo--][div class=\\\'quotetop\\\']QUOTE[/div][div class=\\\'quotemain\\\'][!--quotec--]Cảm thức lạc loài trong sáng tác của Thuận (1/2)
Trịnh Đặng Nguyên Hương

[div align=\\\"right\\\"]"Cuộc đời đó, có bao lâu mà hững hờ"
- Trịnh Công Sơn[/div]

Trong số các tác giả hải ngoại tạo được sự chú ý của dư luận từ sau đổi mới, Thuận xuất hiện muộn nhưng nhanh chóng khẳng định được vị trí của mình.
 
Tu nghiệp tiếng Pháp ở Nga từ thời cải tổ, sau lại định cư và tạo dựng sự nghiệp văn chương ở Pháp, điểm nổi bật trong sáng tác của Thuận là những thể nghiệm, tìm tòi trong lối viết; cùng với đó, là thức nhận về thân phận di dân, tha hương và lưu lạc như một căn cước cố hữu (1). Chỉ có điều, viết về di dân nhưng Thuận đã vượt ra khỏi mặc cảm tha hương, mặc cảm da vàng, để đào sâu vào thân phận người mang tính phổ quát. Ở một khía cạnh nào đó, dưới ngòi bút của chị, ranh giới giữa các lãnh thổ, quốc gia, thậm chí giữa các nền văn hoá được đánh mờ đặng nổi bật một dụng ý nghệ thuật: khắc họa cảm thức lạc loài của con người trong xã hội tiêu thụ (2). Bài viết này, bằng việc phân tích những tác phẩm, hướng tới việc làm rõ dụng ý nghệ thuật ấy, từ đó, đi tìm thông điệp nghệ thuật cũng như những đóng góp của Thuận cho đời sống văn học và tinh thần Việt Nam đương đại.

Từ lạc loài trong tổ ấm

Gia đình, theo quan niệm truyền thống, luôn là tổ ấm được gắn kết bởi lòng yêu thương, là chốn bình yên nhất cho mỗi cá nhân sinh ra, lớn lên và trở về sau những thành công và cả những thất bại cay đắng nhất của chính mình. Gia đình luôn là nơi nuôi dưỡng, tiếp sức, ươm mầm những hạt giống và nhân cách con người. Nhân vật của Thuận không đơn thuần cảm nhận như vậy, thậm chí nó phát hiện ở gia đình - nơi trú xứ bình yên nhất trong quan niệm thông thường - những điều ngược lại. Thuận đã tái dựng những mô hình gia đình độc nhất vô nhị mà ở đó “tổ ấm” biến thành “tổ lạnh” bởi “hôn nhân đồng nghĩa với những phép cộng sinh” theo như cách nói của Phạm Thị Hoài.

Với Liên (Pari 11/8), hình ảnh gia đình khá mờ nhạt, hầu như không được nhắc tới. Người quan tâm đến Liên nhiều nhất và cũng là duy nhất trong nhà chính là anh trai. Khi đang là Bí thư thứ 2 Thương vụ Việt Nam tại Xô-phi-a, anh luôn “viết thư hỏi tin tức học hành của Liên, xong lại bắt Liên viết thư báo cáo” (3, 166) (3), về phép không quên mua quà cho em gái "một đôi mùi xoa in hoa hồng và ba quả táo tây" (3, 165). Liên tốt nghiệp Đại học Mỏ địa chất, trong khi các bạn cùng trường dài cổ chờ việc thì anh đã lo cho cô một chỗ làm trong Xí nghiệp giày vải Yên Viên. Anh cũng "không ngừng theo dõi đường đi của em, xuống tận nơi để trao đổi với ban lãnh đạo" (3, 168). Về hưu, nghĩ đến Liên, anh khóc. Hiếm có một người anh nào chu đáo, trọn vẹn như thế. Khi còn là sinh viên, Liên đã cảm động trước sự quan tâm của anh. Nhưng tại sao, trong những năm tháng vật vờ sống dở chết dở ở Pari, Liên không quay quắt nhớ về gia đình, không một lần viết thư thăm anh chị, cũng không có ý định trở về dù cuộc sống đen sầm trước mắt. Bởi Liên đã biết, đã hiểu sâu sắc cái giá của sự quan tâm ấy là gì? Đó chính là cách trả nợ sòng phẳng của anh trai với Liên - thần nữ cứu mạng đời anh. "Liên không tin vào phép lạ. Nhưng anh thì tin như con ngươi của mắt mình” (3, 168). Phép lạ ấy khiến anh trai Liên "một thằng không đánh vần nổi hai câu tiếng Bun lại ngoi đúng Thương vụ Xô - phi - a", chưa một ngày ra chiến trường lại được kết nạp Đảng, ngồi chưa ấm chỗ trưởng phòng đã lên ghế vụ phó Ngoại thương, vụ lùm xùm với em út không tước mất chức vụ trưởng lại còn được đưa lên hàng thứ trưởng... Phép lạ ấy lá quẻ đền Trần chỉ rõ: "Quan lộ của anh có Liên là thần nữ cứu tinh 24/24" (3, 168). Nhờ Liên mà anh thăng tiến, biến dữ thành lành, đổi hoạ thành phúc. Làm sao anh không quan tâm đến Liên cho được. Sự quan tâm ấy chấm dứt khi Liên đặt chân lên máy bay sang Pháp. Món nợ cuối cùng xem như được trả hết, trả xong cũng đồng nghĩa với việc sự quan tâm chấm hết. Nhận thức được bản chất của tình anh - em, cũng là lúc Liên thấy mình không còn chỗ để trở về. Hà Nội hay Pari, ở đâu cũng không có chỗ cho cô. Liên chọn cuộc sống lay lắt ở Pari, bởi dù sao, ở đây cô còn có tình bạn với Pát. Liên không phải trả giá và cũng không cần ai trả giá cho một tình bạn đơn giản, vô tư và chân thành.

 
[div align=\\\"center\\\"]
Tiểu thuyết "Chinatown" (Thuận). [/div]

Ngược về phía trước hành trình sáng tạo của Thuận, Chinatown cũng dựng nên trước người đọc những mô hình gia đình phong phú và đặc biệt: gia đình của bố tôi và mẹ tôi, gia đình của cậu mợ tôi, gia đình của hắn với Hêlen, gia đình của tôi và Loan (trong tiểu thuyết I'm yellow), gia đình của tôi và Thuỵ... Dưới sự quan sát của tôi - nhân vật chính, tất cả những mô hình gia đình này đều kỳ lạ và không sao hiểu nổi. Làm sao có thể hiểu được khi trong tư cách một đứa trẻ, "tôi" thấy bố tôi với mẹ tôi luôn là một "từ thú vui hàng ngày (cả hai đều thích ăn su hào luộc) đến tham vọng (trước là cái bằng màu đỏ Liên Xô, sau là luận án cao học Pháp). Từ quan hệ gia đình (cả hai đều nể cậu mợ tôi) đến quan hệ xã hội (cả hai đều thù ghét người Hoa)... Từ lọ tăm đến chai nước mắm, từ cái bô đến tiếng gáy song song” (2, 84).

Cụm từ "bố tôi, mẹ tôi" không phải là "bố mẹ tôi" được day đi dứt lại trong từng trang ký ức được lật giở của tôi. "Bố tôi, mẹ tôi” luôn được đặt trong thế bình đẳng song song, rõ ràng, mạch lạc. Họ là một gia đình nhưng là hai cá thể rã rời, không liên kết. Những cái giống nhau không tạo nên sự đồng cảm, chia sẻ mà biến họ trở thành hai thanh nam châm cùng dấu chứa lực đẩy mãnh liệt khi gần nhau.

"Chưa lần nào tôi được nghe bố tôi phát vào mông mẹ tôi để mẹ tôi quát là đồ động cỡn. Chưa lần nào tôi được thấy mẹ tôi mặt mày xưng xỉa vì bố tôi mải ngắm đôi đùi bà hàng xóm (...) chưa lần nào nửa đêm tôi bị những tiếng hổn hển đánh thức để chỉ cần hé mắt là có thể thấy mẹ tôi rung lên bần bật dưới sức nặng bốn mươi năm cân của bố tôi (...). Chưa lần nào, chưa lần nào, từ khi tai tôi biết nghe, mắt tôi biết nhìn, tai mắt tôi được dịp chứng kiến bố mẹ tôi chăm sóc cho mối quan hệ vợ chồng" (2, 87).

Giống như cụm từ "bố tôi, mẹ tôi", "chưa lần nào" cũng trở đi trở lại như một điệp khúc. Điệp khúc này khẳng định sự tồn tại phi lý của một mô hình có tên là tổ ấm. Có thể được gọi là gia đình chăng khi ở đó hoang lạnh tình người và cũng không tồn tại những khao khát bản năng nguyên sơ nhất, nơi con người không có sự hoà hợp về tâm hồn và thể xác để thấy mình được thuộc về nhau.

Tôi - đứa con cứ lạc ra, trượt ra trong "tình yêu thương" của bố mẹ mình. Tôi chua chát nhận ra "những cốc chè đỗ đen mẹ tôi tự tay nấu không phải để thưởng cho một điểm 10 toán mà để tôi tiếp tục ngày hôm sau mang về một điểm 10 vật lý, một điểm 10 thể dục hay một điểm 10 của bất kỳ môn học nào khác", "những bộ óc lợn bố tôi xếp hàng từ sáng đến chiều mới mua được không phải để thưởng cho một điểm 10 văn mà để tôi tiếp tục ngày hôm sau mang về một điểm 10 lịch sử, một điểm 10 tập quân sự" (2, 61). Tôi có nhiệm vụ chuyển "chè đỗ đen, óc lợn hấp nồi cơm" thành "những điểm 10, thành những lời khen trong học bạ" (2, 62). Tôi âm thầm "ký" vào hợp đồng trao đổi với bố mẹ mình. Nhưng tôi, mãi mãi không thể nào quên. Tôi không thể nào quên được "những cốc chè nấu bằng kẹo mậu dịch vừa lợ vừa ngái, đỗ hầm nát như tương", tôi vẫn nhớ "những bộ óc lợn để trong bát nhôm cho vào nồi cơm hấp, bao nhiêu muối vẫn thấy tanh" (2, 61). "Chè đỗ đen, óc lợn hấp nồi cơm", "những điểm 10", bản hợp đồng đã ký ấy mãi mãi trở thành nỗi ám ảnh kinh hoàng đối với "tôi".

Gia đình "tôi" không phải là một ngoại lệ trong xã hội. Bố mẹ "tôi" chính là bản sao của ông bà nội tôi hai mươi lăm năm trước, cậu mợ tôi lại là một bản sao khác của bố mẹ tôi. Bị ám ảnh bởi mô hình gia đình cộng sinh này, tôi đã thấy, đã đặt nhân vật của mình trong tiểu thuyết I'm yellow vào một mô hình gia đình cũng không kém phần dị biệt.

Nhân vật tôi - hoạ sĩ, từng ký hai bản hợp đồng lớn trong đời. Năm năm đại học là hợp đồng đầu tiên anh ta ký với bố mẹ ruột của mình. Trong đó anh ta chịu trách nhiệm về tinh thần còn bố mẹ anh ta chịu trách nhiệm về vật chất. Đó là một thoả thuận khiến cả "đôi bên đều hài lòng" (2, 45). Hợp đồng đó được thanh toán sòng phẳng sau năm năm bằng chính tấm bằng tốt nghiệp đại học của anh ta để lại nhà bố mẹ. Hợp đồng lớn thứ hai anh ta ký với Loan, cô cấp dưỡng đường sắt. Hợp đồng đó được ký kết ngay từ đêm tân hôn, trong đó "Loan gánh vác bên tinh thần, còn tôi chịu trách nhiệm phần vật chất" (2, 44), đứa con gái ra đời sau đó đóng vai trò cảnh sát, luôn nhắc nhở bố mẹ không được quên bổn phận của mình. Với tư cách là một người chồng, một người chủ động ký kết hợp đồng, nhân vật tôi liệu có thoát khỏi trạng thái lạc loài? Năm năm chung sống chỉ mang lại cảm giác "ghê tởm", luôn "âm thầm mong vợ tôi chết", khao khát "cô ấy biến khỏi cuộc đời tôi, biến vĩnh viễn” (2, 50). Vì sao nhân vật "tôi" rơi vào cảnh ngộ này? Lẽ ra anh ta có thể bằng lòng với một người vợ đảm đang, giỏi nắm bắt thị trường, giúp chồng hái ra tiền nhờ hội hoạ, với một đời sống vật chất sung túc, một đứa con gái bụ bẫm,... Nhưng anh ta vẫn lạc lõng, vẫn bơ vơ, vẫn kiên quyết bằng mọi giá chấm dứt hợp đồng đã ký. Tại sao? Có lẽ, là một nghệ sĩ, anh ta nhanh chóng nhận ra: cuộc hôn nhân này tước bỏ của anh ta tự do (tự do trong lối sống và tự do trong sáng tạo). Anh ta không thể tiếp tục sống theo yêu cầu của Loan, sản xuất tranh theo những đơn đặt hàng hàng loạt. Đánh mất tự do đồng nghĩa với việc đánh mất mình.

Ở Vân Vy, hợp đồng hôn nhân được thay thế bằng những thoả thuận. Vy và Vượng từ lâu đã thống nhất hàng tháng chỉ quan hệ hai lần để "đảm bảo chất lượng trứng và tinh trùng". Sống với nhau đã bảy năm, Vy vẫn luôn bất ngờ mỗi khi Vượng vui vẻ: "Không hiểu sao tối nay Vượng nhí nhảnh thế, hay Vượng mới kê được toa thuốc trẻ hoá đặc biệt" (5, 69). Vy về Hà Nội hai tuần mà "Vượng thay đổi không ngờ, lúc nãy thì nhí nhảnh, bây giờ lại hài hước, từ bếp còn toả ra một mùi thơm" (5, 231). Ngược lại, Vượng cũng không mảy may bận tâm Vy sống thế nào trong hai tuần xa Vượng về Việt Nam. Thậm chí, Vượng cũng không một lần gọi điện dù "chỉ nhịn hai mớ rau muống là được một thẻ năm mươi phút về Hà Nội" (5, 151). Sự tồn tại hay vắng mặt của Vy với Vượng và ngược lại không gây bất cứ một xáo trộn nào trong "ao đời" phẳng lặng của cả hai. Hôn nhân trở thành sự gá kết tạm bợ những kẻ xa lạ dưới một mái nhà nên cá thể nào có ý thức về sự tồn tại của mình đều thấm thía nỗi bất an và không tránh khỏi cảm giác lạc loài.

Đây là một mô hình khác mà tính dị biệt đạt đến đỉnh cao. Gia đình T và "tôi" (một nhân viên kế toán người Pháp) trong T mất tích. Họ sống chung trong một căn phòng với "hai chiếc giường cá nhân kê song song cạnh nhau" (5, 62) để "người này không làm phiền người kia" (5, 62). Cuộc sống bình lặng và yên ổn. Họ ít giao tiếp với nhau đến nỗi "tôi chưa bao giờ đọc đúng tên T", "tên riêng của tôi, T chưa gọi bao giờ", "các cuộc đối thoại của chúng tôi trống không" (5, 57). Sự mất tích của T cũng không đem lại bất cứ xáo trộn nào trong tâm hồn phẳng lặng của người chồng. Bởi anh ta nghĩ "T mất tích thì cảnh sát cứ việc đi tìm" (5, 38). Làm sao “tôi” có thể nhớ T, nghĩ về T khi tên riêng của cô ấy “tôi” cũng không phát âm đúng. Có cố gắng anh ta cũng không thể nhớ được một câu nói hoàn chỉnh nào của T. Và chính anh ta cũng không hiểu nổi lý do nào đã khiến họ có thể sống với nhau tới 6 năm liền. Một sự phi lý không sao hiểu nổi. Sợi dây ràng buộc bền chắc nhất giữa các thành viên là tình yêu, tình thương, sự cảm thông, chia sẻ đã bị chặt đứt từ lúc nào không hay. T mất tích phải chăng vì ý thức được sâu sắc sự lạc loài của mình giữa gia đình? Quyết định mất tích của T chính là sự phủ nhận gay gắt đối với cái gọi là tổ ấm.

Sống trong “tổ lạnh” thời hiện đại ấy, mỗi ngày sống là thêm một ngày lạc loài, bơ vơ. Điều đáng sợ nhất mà Thuận cảnh báo trong sáng tác là sự lạc loài của những đứa trẻ. Không được yêu thương, không được sống trông bầu không khí ấm áp, sẻ chia, những đứa trẻ như những mầm cây chưa kịp lớn đã vội héo úa. Chúng trở thành những kẻ lạc loài trong chính gia đình của mình và chấp nhận lạc loài như một tất yếu. Giữa hợp đồng hôn nhân của bố mẹ, nhân vật “tôi” trong Chinatown dù được chăm chút kỹ càng, dù luôn dẫn đầu lớp, là niềm hy vọng của toàn trường không bao giờ có thể nở một nụ cười trọn vẹn, “cái mặt lúc nào cũng khó đăm đăm”. My cô bé 14 tuổi xinh xắn con gái của Mai Lan trong Pari 11/8 sớm tìm đến rượu và giải thoát mình khỏi nỗi thất tình bằng việc tìm đến cái chết. Con gái T trong T mất tích, một đứa trẻ còn đang tuổi mẫu giáo, trước sự vắng mặt bất thường của mẹ cũng chỉ “duy nhất một lần hỏi T đâu”, khi được trả lời là T mất tích thì “cái tin T mất tích dù bất ngờ đến mấy cũng không thể thay đổi bản tính kiệm lời của nó, nếu không nói là con bé trở lên lặng lẽ hơn” (5;45). Sống cạnh một người cha vô cảm, một người mẹ kiệm lời như cái bóng, không biết từ bao giờ con bé cũng trở lên lặng lẽ, thậm chí nó còn biết dấu cả những tiếng thở dài. Những đứa trẻ dù lớn hay bé trong tác phẩm của Thuận đều là những đứa trẻ “chết già”. Nếu không có đôi dòng chú thích về tuổi tác chúng có thể lẫn vào thế giới vô cảm, ảm đạm của những người lớn, trở thành những người lớn “bơ vơ”. Cũng dễ hiểu khi hôn nhân giữa bố mẹ chúng như những bản hợp đồng thì làm sao những đứa con được yêu thương để có thể biết yêu thương và đón nhận. Đọc Thuận, dễ thấy những đứa trẻ không tìm thấy điểm tựa yêu thương trong gia đình là sự cảnh báo đáng sợ về một thế giới tương lai.

Phát hiện sự lạc lõng, bơ vơ của cá thể trong những mô hình gia đình Việt - Việt (bố tôi - mẹ tôi, cậu mợ tôi, tôi - Thuỵ), Pháp - Việt (T - tôi, Mai Lan - kiến trúc sư người Pháp), Việt - Việt kiều (Vy - Vượng)... Thuận cảnh báo sự rạn nứt ngầm của xã hội bắt đầu từ những tế bào gia đình. Thiếu căn cốt vững chắc nhất là tình yêu, mô hình gia đình tất yếu sẽ biến dạng, con người lạc loài chính trong nơi vẫn được coi là bình yên nhất của mình. Bệnh vô cảm, thói giả dối, háo danh, sự hãnh tiến,... trở thành loài nấm độc sinh sôi nảy nở trên mảnh đất gia đình cằn cỗi tình yêu, theo đó, mà nhân lên mảnh đất của cộng đồng.

(Còn tiếp)

________

Chú thích:

1. Tính đến nay, sau gần mười năm viết văn, Thuận đã công bố 1 truyện ngắn (What do you like for your breakfast?) và 5 tiểu thuyết: Made in Việt Nam (NXB Văn mới, California, 2003), Chinatown (NXB Đà Nẵng, 2004), Pari 11/8 (NXB Hội Nhà văn, 2005), T mất tích (NXB Hội nhà văn, 2006), Vân Vy (NXB Hội nhà văn, 2008). Trong đó, trừ T mất tích, các tiểu thuyết còn lại đều trực diện với đề tài thân phận tha hương.

2. Ở đây chúng tôi hiểu: cảm thức lạc loài như là thức nhận về sự bơ vơ, lạc lõng tất yếu của cá thể trong môi sinh của nó. Nghĩa là cá thể xuất phát từ nhận thức về sự khác biệt sâu sắc của bản thân với môi sinh (hoàn cảnh sống, chủng tộc, văn hoá,...) mà chủ động tách mình bởi cảm nhận về sự xa lạ với xung quanh. Sự chủ động này khiến nó bơ vơ, lạc lõng nhưng không rơi vào bi kịch. Nó làm nảy sinh mối hoài nghi khắc khoải về ý nghĩa của sự sống và con người. Nói cách khác, "cảm thức lạc loài" là sản phẩm của xã hội hiện đại, gắn liền với sự phát triển của tư duy, của ý thức cá thể, trong tình cảnh đổ vỡ về ý hướng hợp thức hóa cũng như sự lên ngôi của văn hóa tiêu dùng.

3. Các trích dẫn từ đây đều theo các sách đã dẫn ở trên, chữ số đằng trước trong ngoặc đơn là theo trình tự tác phẩm được công bố, chữ số phía sau là số trang.

[/quote]
VNE
« Last Edit: November 03, 2010, 02:23 PM by miss1612 »
[span style=\\\'color:green\\\'][span style=\\\'font-size:11pt;line-height:100%\\\']gắng sống đến bình minh[/span][/span]

Offline miss1612

  • *
  • Guests of Honour
  • Posts: 132
  • Joined: Dec 2004
  • Thanked: 0
  • Thanks: 4
« Reply #4 on: November 11, 2010, 10:41 AM »
Logged
[!--quoteo--][div class=\\\'quotetop\\\']QUOTE[/div][div class=\\\'quotemain\\\'][!--quotec--]'Jane Eyre' phiên bản mới tung trailer đầu tiên
http://vnexpress.net/GL/Van-hoa/San-khau-D...2D03/page_1.asp

Bộ phim chuyển thể từ tác phẩm văn học kinh điển của nhà văn người Anh - Charlotte Bronte - với diễn xuất của ngôi sao trẻ Mia Wasikowska vừa tung ra trailer đầu tiên dài hơn 2 phút tiết lộ phần nào nội dung phim.

Jane Eyre do đạo diễn trẻ Cary Fukunaga thực hiện là tác phẩm điện ảnh thứ sáu được chuyển thể từ một trong những cuốn tiểu tiểu thuyết có ảnh hưởng sâu sắc và nổi tiếng nhất của nền văn học Anh. Trailer đầu tiên đã tiết lộ một số cảnh quay trong phim như Jane nổi loạn chạy trốn khỏi những kẻ độc ác trong quá khứ và tới sống tại lâu đài Thornfield - nơi bị ám ảnh bởi những điều bí mật.

[div align=\\\"center\\\"]
"Jane Eyre" và "Rochester" của màn ảnh rộng 2011. Ảnh: Focus Features.[/div]

Trailer còn tiết lộ khoảnh khắc đầu tiên mà Jane Eyre gặp gỡ với quý ông Rochester - chủ lâu đài - và nụ hôn lãng mạn tràn đầy cảm xúc của họ. Thể hiện vai nữ chính Jane Eyre là ngôi sao trẻ người Australia Mia Wasikowska. Cô từng được chú ý khi vào vai Alice trong bom tấn 3D Alice in Wonderland của đạo diễn Tim Burton hồi đầu năm nay. Nam diễn viên người Đức Michael Fassbender (phim Inglourious Basterds) sẽ đưa hình ảnh quý ông lịch lãm Rochester lên màn ảnh rộng.

Ra đời vào năm 1847, tiểu thuyết Jane Eyre của nhà văn Charlotte Bronte đã gây tiếng vang lớn và trở thành một trong những tác phẩm vĩ đại nhất của nền văn học Anh. Nhà văn đã gây xúc động cho biết bao thế hệ bằng câu chuyện cảm động về một người con gái tỉnh lẻ vật lộn với cuộc sống khắc nghiệt để bảo vệ phẩm giá và tự khẳng định con người của mình.

[div align=\\\"center\\\"]
Poster phim "Jane Eyre" phiên bản mới. Ảnh: Focus Features.[/div]

Jane Eyre là một cô bé mồ côi cha mẹ từ nhỏ được người cậu ruột nuôi dưỡng. Tuy nhiên, sống với người mợ độc ác Sarah Reed, Jane đã phải trải qua một tuổi thơ cơ cực. Cô thường xuyên bị gia đình người cậu hắt hủi, đối xử tàn nhẫn. Năm lên 10 tuổi, Jane bị tống vào trại trẻ mồ côi Lowood và chịu đựng cuộc sống khắc nghiệt tại đây trong suốt 8 năm. Khi trở thành một thiếu nữ xinh đẹp, Jane tới làm gia sư tại lâu đài Thornfield và đem lòng yêu ông chủ Rochester. Tuy nhiên, để đến được với hạnh phúc, tình yêu của hai người đã gặp biết bao thăng trầm và mất mát.

Ngoài Mia Kasikowska và Michael Fassbender, Jane Eyre phiên bản 2011 còn có sự tham gia của nữ diễn viên gạo cội Judi Dench và tài tử Jamie Bell. Phim do Focus Features thực hiện và sẽ được phát hành vào ngày 11/3 năm sau. [/quote]
VNE
[span style=\\\'color:green\\\'][span style=\\\'font-size:11pt;line-height:100%\\\']gắng sống đến bình minh[/span][/span]

Offline miss1612

  • *
  • Guests of Honour
  • Posts: 132
  • Joined: Dec 2004
  • Thanked: 0
  • Thanks: 4
« Reply #5 on: November 22, 2010, 02:24 PM »
Logged
[!--quoteo--][div class=\\\'quotetop\\\']QUOTE[/div][div class=\\\'quotemain\\\'][!--quotec--]
Nước Nga lãng quên Leo Tolstoys
[div align=\\\"right\\\"]Pham Mi Ly[/div]

100 năm sau khi mất, tiểu thuyết gia, nhà hoạt động hòa bình trứ danh của nhân loại được cả thế giới nhớ thương nhưng lại bị hờ hững trên chính quê hương ông. 20/11/1910, cả nước Nga than khóc khi Leo Tolstoy trút hơi thở cuối cùng trại một nhà ga xe lửa miền trung nước Nga. 20/11/2010, dịp kỷ niệm 100 năm ngày mất của Tolstoy lạnh lùng trôi qua giữa mùa đông nước Nga.
[div align=\\\"center\\\"][/div]
Theo AFP, không có một kế hoạch kỷ niệm đặc biệt nào được đề cập đến. Không có công trình tưởng nhớ nào được dựng nên trên các quảng trường. Người Nga vô tình hơn bao giờ hết với một trong những người con lừng danh nhất xứ sở này.

“Ông ấy là một người phiền phức, dù là hôm nay hay một thế kỷ trước thì vẫn thế. Để đánh dấu 100 năm đã qua của nước Nga, chẳng ai muốn tổ chức gì”, Pavel Basinsky, tác giả cuốn Flight From Heaven, cho biết. Trong Flight From Heaven, tác giả kể về việc Tolstoy thường xuyên chạy ra đường giữa đêm khuya khi còn sống trong ngôi nhà ở Yasnaya Polyana.

Một đêm mùa đông năm 1910, Tolstoys chạy trốn khỏi ngôi nhà nơi ông chung sống với người vợ 48 tuổi, chỉ với 50 rúp trong túi. Nhà văn khi đó 82 tuổi, vội vã đến một tu viện xin trú chân qua đêm. Ông bị cảm lạnh lúc đang ngồi trên tàu và qua đời tại ga tàu Astapovo ở Lipetsk. Sau này, vào năm 1918 hoặc 1920, ga Astapovo được đổi tên thành ga Leo Tolstoy.

“Đó là cái chết làm rung chuyển thế giới, một sự kiện lịch sử”, ông Vitaly Remizov, Giám đốc Bảo tàng Leo Tolstoy ở Moscow nói với AFP. Mặc dù vậy, ông này cho biết dịp kỷ niệm 100 ngày mất của nhà văn không được tổ chức rộng rãi trên toàn nước Nga. Các hoạt động đa phần gói gọn trong các viện văn học hoặc bảo tàng. Hầu hết diễn ra bên ngoài thủ đô Moscow nên không thể thu hút số lượng người tham gia đông đảo, trong đó có một bảo tàng mới mở ở Astapovo hôm 13/11, do một diễn đàn sinh viên thành lập.

Bộ phim The Last Station (Ga cuối) do Hollywood sản xuất và nữ diễn viên kỳ cựu Helen Mirren đóng vai chính là tác phẩm điện ảnh mới nhất kể về cái chết bi kịch của Tolstoy, chỉ được công chiếu tại 35 rạp ở Moscow. Trong khi đó, hãng phim Nga, nơi thường rất hào hứng sản xuất các tác phẩm kinh điển kỷ niệm các ngày lễ lớn, lại thờ ơ với sự kiện này.

Trong khi đó, Alexander Pushkin, tình yêu của nước Nga, được tổ chức kỷ niệm 200 năm ngày sinh vào năm 1999 rất rầm rộ. “Ngày Pushkin” được chính phủ thành lập với nhiều hoạt động rất sôi nổi. Còn Tolstoy, hiện tại đối với người Nga ông là hiện thân của thứ tư tưởng cực đoan. “Có lẽ thấy nước Nga ngày nay, ông ấy sẽ chẳng hài lòng”, Vladimir Tolstoy, cháu của nhà văn nói. Vladimir đang điều hành một bảo tàng ở Yasnaya Polyana, nơi đại gia đình Tolstoy sinh sống cho đến 1921.

“Ông thích sự thật, còn người Nga hiện nay thích dối trá và đạo đức giả”, Vladimir nói với AFP.

“Ý tưởng từ bỏ của cải vật chất của Tolstoy có vẻ vô lý ở Nga, khi chúng tôi đang trong chế độ Tư bản chủ nghĩa”, Pavel Basinsky nói. Tolstoy từng từ chối một khoản thừa kế khổng lồ trước khi chết. Theo Basinsky, “Chỉ có những người như Bill Gates mới làm được như vậy, các nhà tài phiệt ở Nga thì chưa chắc”.
[/quote]
VNE
[span style=\\\'color:green\\\'][span style=\\\'font-size:11pt;line-height:100%\\\']gắng sống đến bình minh[/span][/span]

Offline Pavelvnr

  • *
  • Juventini
  • Posts: 1,844
  • Joined: Oct 2004
  • Thanked: 416
  • Thanks: 408
  • Gender: Female
  • Người gác rừng bị lãng quên
« Reply #6 on: October 06, 2012, 09:47 PM »
Logged
'Xem đêm' của Phùng Cung nhận giải Hội nhà văn HN

Hội Nhà văn Hà Nội còn trao giải năm 2012 cho ‘SBC là săn bắt chuột’ - Hồ Anh Thái, ‘Buổi câu hờ hững’ - Nguyễn Bình Phương, ‘Dĩ vãng phía trước’ - Ngô Thảo, bản dịch ‘Lolita’ - Dương Tường.

 Hội nhà văn Hà Nội lần thứ hai vinh danh Trần Dần

Ngày 1/10, tại trụ sở 19 Hàng Buồm, Hội Nhà văn Hà Nội đã họp hội đồng xét giải thưởng và xét kết nạp hội viên năm 2012. Hội đồng có 9 người do nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên, Chủ tịch Hội, chủ trì. Các tác phẩm được xét giải thuộc phạm vi xuất bản trong mười hai tháng, tính từ quý III năm 2011 đến quý II/2012.

Năm nay, hội đồng quyết định trao giải Thành tựu thơ - giải không nằm trong hệ thống giải thường xuyên - cho tập "Xem đêm" của Phùng Cung (1928-1997). Hội đồng nhận định: "Thơ Phùng Cung cho ta thấy cái tài của ông trong việc sử dụng tiếng Việt thôn quê được nâng lên thành ngôn ngữ thơ, trong cái nhìn cảnh sắc đời sống nông thôn và nông dân, trong sự nén lặng và bùng nổ âm thầm của tâm tư cá nhân nén trong từng câu chữ". "Xem đêm" được xuất bản lần đầu năm 1995 và tái bản bổ sung năm 2012 "là một bằng chứng thuyết phục cho thơ đích thực và sức sống của thơ". Quyết định trao giải Thành tựu thơ cho "Xem đêm" được xem là điều đích đáng của năm nay, theo hội đồng xét giải.


Bìa tập thơ "Xem đêm" của Phùng Cung.

Ở hạng mục Văn, tiểu thuyết “SBC là săn bắt chuột” của nhà văn Hồ Anh Thái giành chiến thắng với số phiếu 8/9. "SBC là săn bắt chuột" xoay quanh chuyện tiêu diệt chuột, nhưng qua đó, tác giả tái hiện bức tranh hiện thực huyền ảo về cuộc chiến giữa Chuột và Người với tất cả sự thô lậu, xấu xa hiện hữu trong cuộc sống, bằng giọng văn giễu cợt, trào lộng, hài hước sâu cay. Chủ tịch Phạm Xuân Nguyên cho biết, cuốn tiểu thuyết chứng tỏ sự chuyên nghiệp trong nghề của nhà văn Hồ Anh Thái, với việc "luôn đổi mới cách viết, luôn lạ hóa chính mình trong cách khai thác và biểu đạt hiện thực, và luôn cập nhật nắm bắt thực tại đời sống ở những vỉa tầng tươi mới nhất". Cùng vào chung khảo là hai tập truyện “Thành phố đi vắng” của Nguyễn Thị Thu Huệ (NXB Trẻ, quý II/2012) và “Lãng du” của Tạ Duy Anh (NXB Thời Đại, 8/2011).


“SBC là săn bắt chuột” đoạt giải ở hạng mục Văn.

Ở hạng mục Thơ, tập thơ "Buổi câu hờ hững" của Nguyễn Bình Phương (NXB Văn Học, 9/2011) không có đối thủ và giành số phiếu tuyệt đối để nhận giải thưởng năm nay. "Buổi câu hờ hững" là tập thơ "nhiều lắng đọng, suy nghiệm được diễn tả bằng một ngôn ngữ và giọng thơ điềm nhiên, tự tại. Nguyễn Bình Phương cách tân thơ không ồn ào ở hình thức mà đi sâu vào cảm xúc và cảm nhận, đem lại cho thơ một vẻ đẹp trầm tư", theo nhận định của hội đồng.

Giải thưởng ở hạng mục Phê bình năm nay thuộc về tập tư liệu chuyện văn chuyện đời "Dĩ vãng phía trước" của nhà phê bình Ngô Thảo (Phương Nam Book & NXB Hội Nhà văn, quý IV/2012). Theo đánh giá của hội đồng, "phần tư liệu, nội dung chính của tập sách, rất có giá trị ở sự duy nhất của nó, được ghi chép của một người trong cuộc và có thẩm quyền, cung cấp cho người đọc và người làm sử văn học những cứ liệu quý báu". Cùng lọt vào chung khảo là hai tập "Phê bình văn học Việt Nam hiện đại" của Trịnh Bá Đĩnh (NXB Văn Học, 11/2011) và "Bình thơ" của Vũ Quần Phương (Thái Hà Books & NXB Dân Trí, quý II/2012).

Tương tự hạng mục thơ, trong lĩnh vực dịch thuật, đối thủ của "Lolita" là chính "Lolita". Bản dịch từng gây tranh cãi về cách dịch, cách hiểu văn bản nhưng hội đồng nhận định, đây là công trình dịch thuật trực tiếp từ tiếng Anh công phu, tâm huyết của Dương Tường, đưa lại cho độc giả một kiệt tác của văn chương thế giới ở mức cao nhất có thể. Giải thưởng là kết quả xứng đáng cho Dương Tường - người đã mất hai năm liền cho cuốn tiểu thuyết lớn của V. Nabokov. Tác phẩm do Nhã Nam và NXB Hội Nhà văn phát hành tháng 3/2012.



Dù gây nhiều tranh cãi, bản dịch "Lilota" của Dương Tường vẫn được đánh giá cao và nhận giải thưởng Hội nhà văn Hà Nội năm nay.

Giải thưởng Hội nhà văn Hà Nội năm nay được đánh giá là thành công khi tìm được những tác phẩm có chất lượng để trao giải và không bỏ trống hạng mục nào. Năm ngoái, giải thưởng thuộc về tiểu thuyết “Những ngã tư và những cột đèn” của Trần Dần (NXB Hội nhà văn), tập thơ “Những kỷ niệm tưởng tượng” (NXB Thế Giới) của Trương Đăng Dung, “Olga Berggolts của tôi” do tác giả Thụy Anh biên khảo và dịch từ nguyên bản tiếng Nga, trong khi hạng mục phê bình để ngỏ do chưa tìm được tác phẩm thực sự xứng đáng.

Hà An - VNE
Phan Lâm An - Y!M: Pavluchkaaa

Offline Pavelvnr

  • *
  • Juventini
  • Posts: 1,844
  • Joined: Oct 2004
  • Thanked: 416
  • Thanks: 408
  • Gender: Female
  • Người gác rừng bị lãng quên
« Reply #7 on: January 20, 2013, 05:10 PM »
Logged
Không biết đây là lần thứ bao nhiêu có chuyện lùng sùng trong HNV Việt Nam.


Nhà văn Y Ban từ chối Giải thưởng Hội nhà văn 2012


(NLĐO)- Chỉ đúng 1 ngay sau khi giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 2012 được công bố, 2 nhà văn Y Ban và Phạm Ngọc Cảnh Nam đã từ chối giải thưởng trao cho mình vì cho rằng không công bằng minh bạch. Trao đổi với Báo Người Lao động chiều ngày 19-1, nhà văn Y Ban cho hay, bà sẵn sàng đương đầu với dư luận sau khi lên tiếng từ chối giải thưởng này. Bà cũng cho hay, đã chính thức từ chối chiếc ghế Ủy viên hội đồng văn xuôi, Hội Nhà văn Việt Nam.


“Đã có người nói tôi vì không được giải chính thức thì hờn giận, nhưng câu trả lời của tôi là nếu không vào hang thì sao bắt được cọp. Nếu không ngồi ghế ủy Ủy viên Hội đồng Văn xuôi của Hội Nhà văn Việt Nam thì làm sao tôi hiểu được nội tình vụ việc như thế nào” - nhà văn Y Ban nói. Lý giải về lý do từ chối của mình, nhà văn Y Ban cho biết, bà đã trải qua hai mùa giải thưởng. Mùa giải năm 2011, những tác phẩm nhà văn này thích và bỏ phiếu thì không đoạt giải. Nhà văn thẳng thắn: “Việc tôi ngồi ở hội đồng không thể đem lại lợi ích nào cho các nhà văn, cho người viết”.

Nói thêm về lý do từ chối giải thưởng 2012 của Hội Nhà văn, nhà văn Y Ban dẫn chứng về cách bỏ phiếu: “Có 5 thành viên hội đồng có mặt. Nhà văn  Bão Vũ có bản nhận xét và bỏ phiếu qua e-mail. Nhà văn Thái Bá Lợi xin bỏ sau. Nhà văn Trần Văn Tuấn bỏ phiếu qua điện thoại. Một chị ở Hội Nhà văn nghe điện thoại nói lại, anh Tuấn bảo anh ấy bỏ tất cho mọi người vì… chưa kịp đọc. Nhà văn Nguyễn Khắc Trường cầm điện thoại nói với nhà văn Trần Văn Tuấn: “Không bỏ thế được đâu”. Ông đọc ai rồi thì bỏ. Nhà văn Trần Văn Tuấn bỏ một phiếu duy nhất cho “Thành phố đi vắng”.  Kết quả cuối cùng có 4 cuốn lọt vào chung khảo: “Thành phố đi vắng” 6/7 phiếu, “Một thế kỷ bị mất” 6/7 phiếu, “Trò chơi hủy diệt cảm xúc” 5/7 phiếu và “Sông núi nước Nam” được đề nghị bằng khen”.

 Nhà văn Y Ban cho hay, bà muốn được công khai minh bạch các nhận xét về những tác phẩm lọt vào chung khảo. “Hội nhà văn Việt Nam là hội nghề nghiệp, những người ngồi ghế giám khảo đều là những chuyên gia, vì thế họ phải lên tiếng chính thức chứ không phải bỏ phiếu kín như thế này” - nhà văn Y Ban nhấn mạnh. “Nếu tôi sáng suốt, nếu tôi không đi trên con đường dại thì ngay từ đầu tôi phải từ chối Ban giám khảo này. Họ không đủ Tâm, đủ Tầm để bỏ phiếu cho tác phẩm. Họ chỉ đủ Tâm, đủ Tầm để bỏ phiếu cho tên tác giả”, nhà văn Y Ban nói thêm.

 Sau nhà văn Y Ban, nhà văn Phạm Ngọc Cảnh Nam cũng từ chối giải thường dành cho mình.

 Nhà văn Nguyễn Tường Thụy cho hay, ông đã nhận được Thư ngỏ gửi Hội Nhà văn Việt Nam của tác giả Phạm Ngọc Cảnh Nam. Bức thư đề ngày 18-1 viết: “Tôi Phạm Ngọc Cảnh Nam, người vừa được Hội Nhà văn Việt Nam công bố  tặng bằng khen năm 2012 cho cuốn tiểu thuyết “Thế kỷ bị mất” của tôi. Tôi xin giành quyền được từ chối bằng khen nầy của Hội Nhà văn. Lý do đơn giản, mà ai cũng thấy là giải thưởng đã không được xét đúng theo tiêu chí văn chương. Và, cũng là để cho sự trung thực còn có chỗ trú ngụ trong ngôi đền thiêng liêng của nó là Văn học”.
 
 

Nhà văn Nguyễn Thị Thu Huệ giành giải

Chiều 16-1, Hội đồng Chung khảo Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam đã công bố chính thức những tác phẩm đoạt giải thưởng của Hội năm 2012. Theo đó, tập truyện ngắn “Thành phố đi vắng” của nhà văn Nguyễn Thị Thu Huệ đoạt giải thưởng ở thể loại văn xuôi.

Trong khi đó, ở thể loại thơ, có ba tác phẩm được trao giải: “Trường ca chân đất” của nhà thơ Thanh Thảo; tập thơ “Màu tự do của đất” của nhà thơ Trần Quang Quý và tập thơ “Giờ thứ 25” của nhà thơ Phạm Đương. Cuốn “Đa cực và điểm đến” của tác giả Văn Chinh đoạt giải thưởng ở thể loại lý luận phê bình. Văn học dịch năm nay không có tác phẩm nào được trao giải. Các tác phẩm được tặng bằng khen gồm có: Tiểu thuyết “Trò chơi hủy diệt cảm xúc” của nhà văn Y Ban; Tiểu thuyết lịch sử “Một thế kỷ bị mất” của nhà văn Phạm Ngọc Cảnh Nam. Tập thơ “Hoa hoàng đàn nở muộn” của nhà thơ Khuất Bình Nguyên và Tập thơ “Chất vấn thói quen” của nhà thơ Phan Hoàng. Lễ trao giải thưởng sẽ được tổ chức cùng với lễ kết nạp Hội viên năm 2012, dự kiến vào ngày 29-1 tới tại hội trường Bảo tàng Hội Nhà Văn Việt Nam (số 275 Âu Cơ, Hà Nội).
 
Yến Anh
http://nld.com.vn/2013011906463774p0c1002/nha-van-y-ban-tu-choi-giai-thuong-hoi-nha-van-2012.htm
Phan Lâm An - Y!M: Pavluchkaaa

Offline Pavelvnr

  • *
  • Juventini
  • Posts: 1,844
  • Joined: Oct 2004
  • Thanked: 416
  • Thanks: 408
  • Gender: Female
  • Người gác rừng bị lãng quên
« Reply #8 on: February 07, 2013, 02:45 PM »
Logged

Tiểu thuyết về Adolf Hitler gây sốt tại Đức


Cuốn sách “He's Back” đưa trùm phát xít trở lại làm ngôi sao sau 66 năm ngủ yên dưới mộ.

Bán sách có chữ ký của Adolf Hitler

He's Back (tên tiếng Đức Er Ist Wieder Da) là tiểu thuyết đầu tay của Timur Vermes. Tác phẩm gây ấn tượng mạnh ngay từ trang bìa. Bìa sách mô phỏng gương mặt Adolf Hitler theo cách rất đặc biệt. Gương mặt Hitler chỉ được thể hiện bằng mái tóc đen chẻ đôi hai mái và chỏm ria đặc trưng được sắp xếp từ tên tác phẩm. Các bộ phận còn lại trên mặt được không được thể hiện.

Phát hành từ tháng 10/2012, đến nay, Er Ist Wieder Da đã tiêu thụ được 400.000 bản sách thường và khoảng 100.000 bản sách audio. Dù giá bìa 19,33 euro (540 nghìn đồng) - cho 400 trang sách - được đánh giá là khá đắt, cuốn sách vẫn bán rất chạy. Nhiều nhà xuất bản nước ngoài đã mua bản quyền cuốn sách. Trong đó, bản tiếng Anh sắp sửa phát hành ở Vương quốc Anh.

Er Ist Wieder Da là một câu chuyện giả tưởng. Thay vì đã chết cách đây 67 năm, trong cuốn sách, Adolf Hitler chỉ ngủ quên vào năm 1945 và đột ngột tỉnh dậy năm 2011. Hitler trở thành một ngôi sao của ngành giải trí trước khi bước chân vào "vũ đài chính trị". Ông phát động chiến dịch mạnh mẽ bài trừ tệ nạn chó mèo đại tiện bừa bãi ra đường.


Trang bìa độc đáo của cuốn sách.

Với cốt truyện này, nhà văn chia sẻ: “Người ta đã quen nghĩ về Hitler theo những khuôn mẫu sẵn có. Người ta quen nhìn ông ta như một con quái vật khác xa với số đông. Tôi muốn cho Hitler một cơ hội sống bình thường như mọi người và làm những điều bình thường nhất có thể”.

Trở thành best-seller, cuốn sách đồng thời nhận được những nhận xét trái chiều từ giới phê bình Đức. Nhiều người lo ngại, việc giễu cợt trùm phát xít theo cách đó có thể tạo nên những phản ứng khó lường từ một bộ phận thanh thiếu niên trẻ tại Đức vốn thần tượng Hitler. Timur Vermes là nhà báo người Đức gốc Hungary. Trước khi xuất bản cuốn tiểu thuyết đầu tay này, ông nổi tiếng với mảng truyện ngắn kinh dị.

Huyền Anh - VNE
Phan Lâm An - Y!M: Pavluchkaaa

Offline forza_alex

  • *
  • Juventini
  • Posts: 1,106
  • Joined: Jan 2005
  • Thanked: 91
  • Thanks: 46
« Reply #9 on: February 22, 2013, 11:12 PM »
Logged
Em đang hóng cái này nè... :m1205:

Tin vui dành cho các fan hâm mộ nhà văn Dan Brown! Không chỉ giới thiệu tựa đề mà Dan Brown cũng đã lên lịch xuất bản tác phẩm mới nhất của mình.


Quyển tiểu thuyết mới có tựa đề "Inferno", đã được công bố vào hôm thứ ba sau khi cư dân mạng đã phát hiện ra một trong những ảnh bìa của cuốn sách bằng cách vào Facebook hoặc tweet dòng chữ  hashtag #DanBrownToday vào mục tìm kiếm.




Cùng lúc đó, nhà xuất bản cũng thông báo rằng quyển sách sẽ được xuất bản vào ngày 14/5 tới đây.

Inferno* sẽ có bối cảnh tại Italy và giống như những quyển best-seller khác của Dan Brown như : Angels & Demons, The Da Vinci Code và The Lost Symbol, nhân vật chính sẽ là Nhà biểu tượng học Robert Langdon.

Browncho biết : "Mặc dù tôi đã được học về Inferno của Dante khi còn là 1 học sinh nhưng mãi cho tới gần đây, khi nghiên cứu ở Florence, tôi  mới thật sự vô cùng ngưỡng mộ những đóng góp và ảnh hưởng lâu dài của Dante đối với thế giới hiện đại. Với quyển sách này, tôi vô cùng phấn khởi muốn đưa người đọc bước vào 1 chuyến hành trình sâu rộng về lĩnh vực thần bí này....một vùng đất của mật mã, ký tự và còn hơn cả một lối đi bí mật."



* Inferno (tiếng Ý có nghĩa là "địa ngục") là phần đầu của bài thơ sử thi huyền thoại do Dante Alighieri  (1265-1321) - nhà thơ, nhà thần học người Ý- sáng tác vào thế kỷ 14. Đây là câu chuyện ngụ ngôn kể về hành trình băng qua địa ngục của Dante dưới sự hướng dẫn của nhà thơ La Mã Virgil. Câu chuyện có liên quan tới cả thiên đường và địa ngục. (theo Wiki)

[Kites.vn]
Này thì ký...

Offline Pavelvnr

  • *
  • Juventini
  • Posts: 1,844
  • Joined: Oct 2004
  • Thanked: 416
  • Thanks: 408
  • Gender: Female
  • Người gác rừng bị lãng quên
« Reply #10 on: February 23, 2013, 09:16 AM »
Logged
Tiểu thuyết gia mỳ ăn nhanh kiểu Hollywood như Sidney Sheldon à :chatterbox: Nhà văn cái (một từ rất bậy không viết ra được) gì mà cứ sòn sòn mỗi năm một tiểu thuyết như là phác thảo kịch bản phim. Sức làm việc thật phi thường :8onion13:
« Last Edit: February 23, 2013, 09:22 AM by PAVELVNR »
Phan Lâm An - Y!M: Pavluchkaaa

Offline forza_alex

  • *
  • Juventini
  • Posts: 1,106
  • Joined: Jan 2005
  • Thanked: 91
  • Thanks: 46
« Reply #11 on: February 23, 2013, 06:22 PM »
Logged
Dan Brown là một cái tên gây nhiều tranh cãi, có nhiều người yêu thích nhưng những kẻ ghét lão cũng đếm không xuể. Đó là hệ quả của việc nổi tiếng quá nhanh và những vẫn đề mà lão đề cập trong tác phẩm của mình quá ư nhạy cảm. Cũng chính vì lẽ đó mà mặc dù cực kỳ thành công với serie tiểu thuyết trinh thám nổi tiếng nhưng lão vẫn không được xếp vào hàng những tay bút huyền thoại.

Nhưng nếu bỏ qua những chuyện đó, cứ coi Dan Brown là 1 cây bút bình thường để thưởng thức tác phẩm của lão thì lại là 1 điều tuyệt vời. Em đã đọc hết cả 5 cuốn của lão trước đó, từ cuốn đầu tiên (Thiên thần và ác quỷ) đến cuốn gần nhất (The Lost Symbol) và lần nào cũng phải cực kỳ quyét tâm mới có thể buông quyển sách xuống. Không phủ nhận em là fan của dòng tiểu thuyết hiện đại, trinh thám (và cực ghét tiểu thuyết lãng mạn, trước có 1 lần đọc Trà Hoa Nữ mà đến giờ vẫn không hiểu sao mình có thể đọc hết cuốn đó dù nó cũng là 1 tác phẩm kinh điển). Em thích cách giải quyết vấn đề của Dan Brown, nó cực kỳ logic và thông minh. Trí tưởng tượng của lão cũng cực kỳ siêu phàm. Nhưng điểm em thích nhất là trong tiểu thuyết của lão chứa 1 lượng kiến thức cực lớn, từ lịch sử, địa lý, khoa học đến tôn giáo. Vì vậy những người có ý định giải trí bằng những tác phẩm của lão sẽ thất vọng vì đọc tiểu thuyết của lão sẽ cực kỳ đau đầu và tương đối khó hiểu nếu không nắm được lịch sử, khoa học và địa lý. Đây là điểm khác biệt lớn nhất giữa Dan Brown và Sheldon, một cây bút thị trường chính hiệu.

Đối với em, điểm - trong các tác phẩm của Dan Brown là sự hư cấu, nhiều khi hơi quá mức.
Này thì ký...

Offline emsapyeu

  • *
  • Juventini
  • Posts: 864
  • Joined: Oct 2004
  • Thanked: 97
  • Thanks: 96
  • Gender: Female
« Reply #12 on: February 23, 2013, 08:17 PM »
Logged
Dan Brown là một cái tên gây nhiều tranh cãi, có nhiều người yêu thích nhưng những kẻ ghét lão cũng đếm không xuể. Đó là hệ quả của việc nổi tiếng quá nhanh và những vẫn đề mà lão đề cập trong tác phẩm của mình quá ư nhạy cảm. Cũng chính vì lẽ đó mà mặc dù cực kỳ thành công với serie tiểu thuyết trinh thám nổi tiếng nhưng lão vẫn không được xếp vào hàng những tay bút huyền thoại.

Nhưng nếu bỏ qua những chuyện đó, cứ coi Dan Brown là 1 cây bút bình thường để thưởng thức tác phẩm của lão thì lại là 1 điều tuyệt vời. Em đã đọc hết cả 5 cuốn của lão trước đó, từ cuốn đầu tiên (Thiên thần và ác quỷ) đến cuốn gần nhất (The Lost Symbol) và lần nào cũng phải cực kỳ quyét tâm mới có thể buông quyển sách xuống. Không phủ nhận em là fan của dòng tiểu thuyết hiện đại, trinh thám (và cực ghét tiểu thuyết lãng mạn, trước có 1 lần đọc Trà Hoa Nữ mà đến giờ vẫn không hiểu sao mình có thể đọc hết cuốn đó dù nó cũng là 1 tác phẩm kinh điển). Em thích cách giải quyết vấn đề của Dan Brown, nó cực kỳ logic và thông minh. Trí tưởng tượng của lão cũng cực kỳ siêu phàm. Nhưng điểm em thích nhất là trong tiểu thuyết của lão chứa 1 lượng kiến thức cực lớn, từ lịch sử, địa lý, khoa học đến tôn giáo. Vì vậy những người có ý định giải trí bằng những tác phẩm của lão sẽ thất vọng vì đọc tiểu thuyết của lão sẽ cực kỳ đau đầu và tương đối khó hiểu nếu không nắm được lịch sử, khoa học và địa lý. Đây là điểm khác biệt lớn nhất giữa Dan Brown và Sheldon, một cây bút thị trường chính hiệu.

Đối với em, điểm - trong các tác phẩm của Dan Brown là sự hư cấu, nhiều khi hơi quá mức.

Mình đồng ý về mặc điểm cộng trong tiểu thuyết của Dan Brown của Forza, đúng là cầm lên rồi thì có hôm trắng đêm để nhai hết cuốn.. Tuy nhiên, mình chỉ thấy trong các cuốn của Dan Brown, đáng đọc nhất là Thiên thần và ác quỷ cùng Mật mã Da Vinci, những cuốn còn lại đều na ná như nhau về cốt truyện. Dù sao thì mình vẫn thích và tìm đọc bằng hết, hihi.
Hạnh phúc hay là nỗi đau, đi đến tận cùng cũng chỉ là nước mắt

Offline Pavelvnr

  • *
  • Juventini
  • Posts: 1,844
  • Joined: Oct 2004
  • Thanked: 416
  • Thanks: 408
  • Gender: Female
  • Người gác rừng bị lãng quên
« Reply #13 on: February 27, 2013, 09:43 PM »
Logged
Không biết chuẩn mực để người ta xếp một cây bút vàng hàng ngũ "huyền thoại" như ý Forza_alex là thế nào nhưng anh nghĩ một nhà văn lớn phải viết được những tác phẩm có tư tưởng lớn hay đóng góp một cái nhìn đáng giá vào văn học thế giới, có thể làm thay đổi ý thức của một bộ phận không nhỏ người đọc, thậm chí thay đổi thế giới. Trong khi đó truyện trinh thám hay hư cấu (fiction) xét cho cùng là để giải trí thôi mà, dùng làm phim mì ăn liền rất tốt. :angel: Sorry anh chưa đọc cuốn nào của dan Brown cả, sau hôm nay có lẽ nên tìm vài cuốn :idea:

-------------


(VNN)

Tiểu thuyết về Yersin - người cô đơn vĩ đại

- Để kể lại cuộc phiêu lưu khoa học cũng như cuộc đời của con người tuyệt diệu này, Patrick Deville đã lần theo dấu chân của Yersin trên khắp thế giới, đặc biệt là tại Việt Nam.

Quote
"Trước khi qua đời tại Nha Trang vào năm 1943, Yersin ý thức được - nhưng không thực sự thấy cay đắng - rằng tên tuổi mình sẽ không có được niềm vinh quang sau khi mất như người thầy Pasteur." - Bình luận của NXB Seuil


Nhà văn Pháp - Patrick Deville

Nhà văn người Pháp Patrick Deville có mặt tại Hà Nội để giới thiệu cho cuốn sách sắp ra mắt của ông tại VN (bản dịch tiếng Việt sẽ phát hành sau khoảng 2 tháng nữa). Đây có thể nói là một sự kiện văn chương không nhỏ. "Yersin - bệnh dịch và bệnh tả" là một cuốn tiểu thuyết tư liệu nghiên cứu kĩ lưỡng về cuộc đời của nhà khoa học, nhà nghiên cứu y khoa lớn của thế giới, người đã khám phá ra trực khuẩn gây ra bệnh dịch hạch - cũng là người đã chọn Việt Nam làm điểm dừng chân trong suốt cuộc đời mình.

Được xem là người học trò lỗi lạc nhất của Louis Pasteur (tiên phong cho ngành vi khuẩn học), đồng thời cũng là người tự do và cô đơn nhất, Alexandre Yersin chưa bao giờ tìm kiếm sự nổi tiếng và công danh. Cũng bởi thế, nước Pháp xa lạ với ông. Khi mà thầy của ông Pasteur - trở thành biểu tượng của  thành công và khám phá trong ngành y - là một ngôi sao khoa học cuối thế kỉ 19 - thì Yersin hầu như không được biết đến ở nước Pháp và trên thế giới. Thế nhưng thiên tài ẩn dật ấy đã cứu nhân loại khỏi thảm họa dịch hạch - cơn dịch gây kinh hoàng một thời từng khiến loài người ngỡ rằng đó là căn bệnh của sự trừng phạt. Với người dân Việt Nam, ông mang về các cây trồng quý như cây cao su, atiso, xây dựng các cơ sở nông nghiệp, nghiên cứu y tế, khoa học, và khai sinh ra thành phố Đà Lạt. Ông để lại nhiều ký ức sâu đậm tại đất nước này, nơi những người gần gũi gọi ông là Ông Năm.


Yersin thời trẻ


Alexandre Yersin trên con tem Việt Nam

Không biết lý do gì khiến Yersin chọn Việt Nam trong số rất nhiều thuộc địa của nước Pháp ngày đó. Nhưng ông đã thực sự gắn bó với mảnh đất ấy - không phải với tư cách của một ông chủ hay một kẻ xâm lược - mà là một nhà khoa học say mê xây dựng, nghiên cứu và đặt nền móng cho nhiều ngành nghề và công trình quan trọng. Hầu như không tìm thấy dấu ấn về đời sống riêng tư hay những người phụ nữ trong cuộc đời ông. Nhà văn Patrick Deville - sau khi lần theo dấu Yersin trên khắp thế giới qua từng tập tài liệu, địa danh, nhân chứng, thư tay, ghi chép -  thuật lại rằng, ngoài những bức thư gửi cho mẹ và chị gái, ông tìm thấy rất ít những dấu hiệu về đời tư của Yersin.

Sau khi thu thập đủ tư liệu, Patrick Deville dành 4 năm biệt lập để viết cuốn tiểu thuyết (cùng với 3 cuốn về danh nhân khác). "Yersin - bệnh dịch và bệnh tả" đã thành công vang dội, lọt vào chung khảo giải Goncourt và nhận giải thưởng Femina năm 2012 - hai giải thưởng văn học danh giá nhất của Pháp. "Yersin và thầy của mình - Pasteur - là 2 người hoàn toàn khác nhau. Pasteur xây dựng cả cuộc đời của mình như một tượng đài; trong khi đó Yersin lại là một người rất thích sự cô đơn, tránh xa nơi ồn ào, tránh xa nơi có thể đem lại vinh quang cho ông để lui về ở ẩn. Nha Trang trước khi ông đến chỉ là một làng chài. Yersin đã khởi xướng và xây dựng rất nhiều công trình ở đây như dưỡng đường, viện Pasteur. Ông cũng đóng góp vào việc làm những chiếc ô tô đầu tiên chạy trên đường Hà Nội" - nhà văn Patrick Deville nói.

Thật hiếm hoi khi một tiểu thuyết tư liệu về một người vốn xa lạ với công chúng Pháp lại thành công đến thế. Phải chăng do tài kể chuyện của nhà văn, cuộc đời kì diệu của Yersin đã kết hợp đầy may mắn với việc nước Pháp vui mừng khi tìm lại được đứa con lỗi lạc của mình?

Hồ Hương Giang
Ảnh: Angellittlefire

-------------------------------

(VNE) - "Yersin, Dịch hạch & Dịch tả" là cuốn tiểu thuyết của nhà văn Pháp Patrick Deville viết về cuộc đời thám hiểm và nghiên cứu khoa học của Alexandre John Emile Yersin - người đã tìm ra trực khuẩn dịch hạch ở Hong Kong năm 1894, đóng góp cho sự phát triển của y học nhân loại. Mặc dù là người Pháp, Yersin sớm rời bỏ đất nước mình để thực hiện hành trình thám hiểm những vùng đất mới. Năm 1891, Yersin theo một con tàu đặt chân tới Nha Trang, Việt Nam và ông đã chọn đây làm nơi sống của mình cho tới khi qua đời vào năm 1943.

Ở Việt Nam, Yersin được nhắc tới nhiều như một nhà khoa học xuất chúng - người có công trong việc thành lập Đại học Y Hà Nội, Viện Pasteur Nha Trang. Ông cũng là người đã phát hiện ra Đà Lạt và xây dựng vùng đất xinh đẹp này. Yersin còn gắn bó, giúp đỡ nhiều người dân Nha Trang nơi ông sống để rồi được họ gọi với cái tên thân mật: "Ông Năm". Được vinh danh ở Việt Nam, thế nhưng, tại quê nhà Pháp, tên tuổi nhà khoa học bị lãng quên cho tới khi cuốn tiểu thuyết của Patrick ra đời. Với "Dịch hạch và dịch tả", Patrick Deville đã làm sống lại những chặng đường nghiên cứu khoa học thầm lặng, niềm đam mê thám hiểm và toàn bộ con người Yersin.
Nhà văn Pháp Patrick Deville và cuốn tiểu thuyết sắp phát hành bản tiếng Việt
Nhà văn Pháp Patrick Deville và cuốn tiểu thuyết sắp phát hành bản tiếng Việt "Yersin, Dịch hạch và Dịch tả".

Có mặt tại Việt Nam chiều 25/2, nhà văn Patrick Deville cho biết để viết cuốn sách này, ông đã đi theo hành trình thực địa Việt Nam của Yersin: từ Nha Trang, Đà Lạt, Hà Nội tới TP HCM... đồng thời dựa vào các tài liệu nghiên cứu, đặc biệt là những thư từ riêng tư của nhà khoa học viết cho mẹ và chị gái trong những năm tháng xa nước Pháp (Yersin mồ côi cha từ nhỏ). Theo nhà văn, cuốn tiểu thuyết hoàn toàn không có chi tiết hư cấu nào. Tất cả đều dựa trên cuộc đời có thật của nhà khoa học, các cột mốc sự kiện, dựng lại một Yersin sống động trước mắt người đọc. Tuy nhiên tác phẩm hoàn toàn không phải một cuốn tiểu sử. Theo Patrick Deville, đó là "một tiểu thuyết được viết theo lối du ký”. Cùng lúc, ông sử dụng nhiều thể loại trong tác phẩm của mình, từ tiểu sử tới tự truyện, ký…

Nhà phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên lại gọi đó là một cuốn tiểu thuyết tư liệu. Tác giả đã dựa trên tất cả chi tiết có thật trong cuộc đời nhân vật để cấu trúc lại, từ đó không chỉ làm rõ hành trạng mà còn cho thấy con người, tính cách của Yersin. Theo nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên, chất tiểu thuyết thể hiện ở lối tự sự sử dụng ngôi thứ ba xuyên suốt tác phẩm. Câu chuyện mở đầu bằng một ông già 77 tuổi từ Paris bay đến Việt Nam để không bao giờ trở lại nước Pháp, bởi bốn năm sau đó, ông qua đời tại Nha Trang. Trên chuyến bay, tất cả hồi tưởng về quá khứ ùa trở lại. Những trang tiếp theo của cuốn sách lần lượt bày ra cuộc đời của Yersin từ những năm tháng là một cậu sinh viên của viện Pasteur nổi tiếng, một môn đồ xuất sắc của nhà khoa học Louis Pasteur; tới việc từ chối tất cả phù hoa, danh vọng đang bày ra trước mắt chỉ để thỏa mãn niềm đam mê thám hiểm các vùng đất mới. Bản tính là người thích sống lặng lẽ, không màng danh lợi, khi tới Việt Nam, ông cũng chọn con đường nghiên cứu thầm lặng, thám hiểm các vùng đất và sống nhân ái với những con người bình thường quanh mình. Một Yersin lặng lẽ hy sinh vì khoa học khi một mình lao vào nhà xác ở Hong Kong nửa đêm để lấy bệnh phẩm từ những thi thể đã phủ vôi bột trắng, từ đó phát hiện ra trực khuẩn dịch hạch cũng được Patrick Deville tái hiện một cách sống động.

Yếu tố thứ hai thể hiện chất tiểu thuyết trong cuốn sách của Patrick, theo Phạm Xuân Nguyên, là việc tác giả đã tạo ra một "bóng ma tương lai" luôn đi theo nhà khoa học. Đây là nhân vật hư cấu tham gia phóng chiếu những sự kiện cuộc đời của Yersin ở các mốc thời gian cụ thể với tương lai. Theo Phạm Xuân Nguyên, "bóng ma tương lai" này nằm trong cấu trúc tiểu thuyết với mục đích nối liền mạch cuộc đời Yersin.

Cuốn tiểu thuyết đã giành giải thưởng Femina năm 2012 và lọt vào chung khảo Goncourt - giải thưởng văn học danh giá nhất của Pháp. Nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên nhận định thành công của cuốn sách có thể do nghệ thuật tiểu thuyết của Patrick Deville nhưng mặt khác, có thể nước Pháp, từ cuốn sách này, đã phát hiện ra Yersin - một người con xuất sắc của họ, một nhà khoa học lỗi lạc mà từ lâu họ lãng quên. Nhân kỷ niệm 70 năm ngày mất của Yersin, 120 năm hình thành và phát triển thành phố Đà Lạt và tôn vinh năm “Pháp tại Việt Nam 2013”, "Yersin, dịch hạch &  dịch tả" sẽ được xuất bản bằng tiếng Việt trong thời gian tới.

Song Ngư
« Last Edit: February 27, 2013, 10:38 PM by PAVELVNR »
Phan Lâm An - Y!M: Pavluchkaaa

Offline forza_alex

  • *
  • Juventini
  • Posts: 1,106
  • Joined: Jan 2005
  • Thanked: 91
  • Thanks: 46
« Reply #14 on: February 28, 2013, 12:54 PM »
Logged
Thực ra trong giới văn chương người ta không dùng từ "huyền thoại" để chỉ một nhà văn xuất sắc, có nhiều đóng góp cho nền văn học thế giới đâu. Em nói thế là do thói quen và cũng để dễ hình dung. Một phần cũng vì lười type, muốn dùng những từ ngắn gọn, dễ diễn đạt ý để diễn đạt thay một câu dài hơn nên mới quăng tạm từ "huyền thoại" vào  :))

Cái mà bác nói (nhà văn lớn phải viết được những tác phẩm có tư tưởng lớn hay đóng góp một cái nhìn đáng giá vào văn học thế giới, có thể làm thay đổi ý thức của một bộ phận không nhỏ người đọc, thậm chí thay đổi thế giới) thì em đồng ý. Những tác phẩm như thế em tạm xếp chúng vào dạng văn học hàn lâm (cái từ này cũng vừa mới nghĩ ra vì chưa tìm được từ nào thích hợp hơn  :d), có giá trịn nghệ thuật và tư tưởng lớn. Nhưng nói thật, em đọc mấy tiểu thuyết loại này không vào được. Trước cũng có thời tìm và đọc những tiểu thuyết được cho là kinh điển, nhưng lần nào cũng phải vật lộn cả tháng mới xong một cuốn, lại không thẩm thấu hết cái giá trị nghệ thuật và tư tưởng to lớn của chúng. Khoảng thời gian đó đủ để cày nát cả 5 cuốn của Brown ra rồi  :))
Này thì ký...

Offline Pavelvnr

  • *
  • Juventini
  • Posts: 1,844
  • Joined: Oct 2004
  • Thanked: 416
  • Thanks: 408
  • Gender: Female
  • Người gác rừng bị lãng quên
« Reply #15 on: November 28, 2013, 02:06 PM »
Logged
Proust en vietnamien ou une autre recherche
(Proust bằng tiếng Việt hay một cuộc tìm kiếm khác)

Nhân kỷ niệm 100 năm xuất bản cuốn Bên phía nhà Swann, tập đầu của bộ tiểu thuyết Đi tìm thời gian đã mất của đại văn hào Pháp Marcel Proust, một cuộc hội thảo quốc tế lấy tên “Dịch Proust như thế nào” (Comment traduire Proust) đã diễn ra vào hai ngày 28 - 29/11/2013 tại Paris.

Dịch giả Dương Tường, với tư cách là khách mời, do không đến dự được vì lý do sức khỏe, đã gửi tham luận dưới nhan đề: Proust en vietnamien ou une autre recherche (Proust bằng tiếng Việt hay một cuộc tìm kiếm khác). Chúng tôi xin giới thiệu trích lược bản tham luận này qua bản dịch của nhà văn Phạm Toàn...

Ngày 19/11/2013, trong khuôn khổ năm Pháp - Việt Nam, tại Trung tâm Văn hóa Pháp Hà Nội, đông đảo người đọc đã nồng nhiệt chào đón bản tiếng Việt Bên phía nhà Swann, đánh dấu 100 năm xuất bản tập 1 của bộ Đi tìm thời gian đã mất, kiệt tác của Marcel Proust - tượng đài vĩnh cửu của nền văn chương Pháp và thế giới.

Và quả thực, giờ đây hoàn toàn đúng lúc để bạn đọc Việt Nam làm quen với Proust, mà theo ý tôi, đây là một nhà văn không bao giờ là nhà văn của công chúng đông đảo. Giới thiệu tác phẩm của Proust với khối công chúng đông đảo này cũng không hề là chuyện dễ dàng gì.

Nhìn từ khá nhiều góc độ, đây là một thách thức lớn, thậm chí tôi dám nói là lớn nhất trong sự nghiệp dịch văn chương của chúng tôi.

Bìa cuốn Bên phía nhà Swann

Một trong những khó khăn to lớn là ở chỗ, khác với những tiểu thuyết truyền thống khác, điều hấp dẫn thú vị ở bộ tiểu thuyết này của Proust lại không nằm trong câu chuyện kể, không nằm trong diễn biến các tình tiết kịch tính. Proust không kể một câu chuyện theo tuyến tính với những trường đoạn logic, mà tác giả lại tạo ra cả một thế giới phức hợp...

(...)
Như Annie Ernaux đã nói rất đúng, “đây là một tác phẩm “buộc phải thế”, tôi muốn nói đó là một tác phẩm cấm ngặt sự dễ dãi”.

(...)

Vậy nên, tập đầu Bên phía nhà Swann, sau khi đã bị từ chối năm lần bảy lượt bởi nhiều NXB khác nhau, kể cả nhà Nouvelle Revue Française (sau này đổi tên là nhà Gallimard), tưởng như là đã không bao giờ có thể ra mắt bạn đọc.Vị chủ xuất bản Ollendorff còn thêm dấm ớt vào sự từ chối của mình bằng lời bình luận đượm ý mỉa mai:“Có thể tôi là người thậm ngu, song tôi không sao hiểu nổi chuyện một tiên sinh bỏ ra cả 30 trang chỉ để miêu tả cách thức ông trằn trọc xoay đi xoay lại trên giường trước khi ngủ được”.

Còn Andre Gide, con người đắn đo thận trọng, thì sau khi từ chối xuất bản tác phẩm này, đã ăn năn: “Việc từ chối cuốn sách này sẽ mãi còn là sai lầm trầm trọng nhất của nhà Nouvelle Revue Francaise, và một trong những nuối tiếc, một trong những điều ân hận thấm thía nhất của đời tôi”. Vậy là, cách thức duy nhất để đến được với Proust đòi hỏi chúng ta phải có một sự kiên tâm ngang bằng với sự kiên tâm của Proust khi nhà văn cẩn trọng điều hành và phối kết những câu văn mình viết ra.

Câu văn của Proust, đó có lẽ là bãi đá ngầm lớn nhất chúng ta phải vượt qua để làm cho công chúng Việt Nam quen dần với tác phẩm của ông.

(...)

Điều cuối cùng nhưng không hề kém quan trọng: độ dài của tác phẩm: Đi tìm thời đã mất trải dài trên hơn 3.000 trang. “Đời người thì quá ngắn, mà Proust lại quá dài” - Anatole France nói. Lại nữa, nhân tố thời gian cần được tính đến. Chúng tôi gồm bốn người tự nhận lấy công việc dịch công trình mênh mông này: các bà Lê Hồng Sâm, Đặng Thị Hạnh và Đặng Anh Đào, đều là giáo sư dạy văn học Pháp lâu năm tại Đại học Quốc gia Hà Nội, và thêm tôi nữa.

Bốn người tuổi đã bát tuần, mà tôi thấy cần nói ra điều này, ấy là người nào cũng gần đất xa trời, và ai cũng thấy mình phải vội vã, ai cũng thấy mình bị săn đuổi vì nỗi sợ hãi đau đớn rằng không muộn hơn ngày mai cái chết có thể đến bất kỳ lúc nào, chấm dứt mọi nỗ lực của mình, để lại dang dở mọi điều mình hết lòng muốn hoàn thành. “Tôi không thể ra đi thanh thản trước khi thấy bản tiếng Việt của Đi tìm…” - giáo sư Đặng Thị Hạnh nói trong cuộc hội họp cách đây hai năm, cuộc họp chúng tôi đã quyết định làm việc này. Và chúng tôi bắt tay vào việc.

Vâng, đúng là tôi có cái cảm giác rằng khi bập vào nhiệm vụ này, chúng tôi đã lao vào một cuộc tìm kiếm khác. Đây không chỉ giản đơn là tìm cách làm ra một phiên bản tiếng Việt của Đi tìm thời đã mất. Công trình dịch Proust, đó là một giấc mơ chúng tôi ôm ấp đã nhiều chục năm trời. Được thêm sức mạnh vì tình yêu của chúng tôi với Proust, thêm nghị lực vì niềm đam mê sùng đạo muốn thực hiện giấc mơ ấp ủ từ lâu ấy, để gói lại một cách đàng hoàng nghiệp dịch thuật văn chương của mình (vì đúng là chúng tôi đều cảm nhận đây sẽ là cuốn sách cuối cùng mình làm), không dám có tham vọng diễn tả đến kiệt cùng tinh thần và cái ý nhị của Proust, chúng tôi hy vọng đem lại cho bạn đọc Việt Nam một chút gì đó dù là ít ỏi thuộc cái ngôn ngữ trữ tình và phong phú sắc màu, cái chất hài hóm hỉnh đầy đồng cảm cùng với tư tưởng cao cả của nhà văn này.

Và, được mạnh thêm vì niềm tin này, chúng tôi tiếp tục đeo đuổi cuộc tìm kiếm của riêng mình.

Quote
Thứ văn xuôi mê đắm

“Văn phong của nhà văn cũng như sắc màu đối với họa sĩ là một vấn đề không thuộc kỹ thuật mà thuộc về con mắt nhìn” - Proust viết. Ông cho rằng một câu văn dài chứa đựng một ý trọn vẹn mà ta không thể cắt ra thành những khúc rời. Hình thức của câu văn hôn phối với hình thức của tư tưởng và mỗi từ nhất thiết phải góp phần sao cho tư tưởng đó được thể hiện triệt để.

Mới thoạt đầu thì ta thấy hoang mang lạc lối nhưng không thấy tối tăm, cuối cùng thì câu văn Proust khiến ta càng đọc kỹ thì càng bị thôi miên, khi ta đọc đi đọc lại mỗi từ và bằng cách hoàn toàn thả mình vào thứ văn xuôi mê đắm một cách tinh tế của Proust, để mà khám phá ra cái duyên trong những biến điệu phong phú của Proust, trong những phân tích tâm lý được đào sâu đến kiệt cùng, trong nhịp điệu của kiến trúc, trong cấu tạo của giao hưởng.

Dương Tường
Thể thao & Văn hóa
Phan Lâm An - Y!M: Pavluchkaaa

Offline Exit

  • *
  • Juventini
  • Posts: 814
  • Joined: May 2005
  • Thanked: 112
  • Thanks: 41
« Reply #16 on: November 28, 2013, 02:40 PM »
Logged
Bên phía nhà Swann là tập đầu tiên trong bộ tiểu thuyết đồ sộ Đi tìm thời gian đã mất.

Trọn bộ Đi tìm thời gian đã mất của Marcel Proust:
 
- Bên phía nhà Swann
- Dưới bóng những cô gái đương hoa
- Về phía nhà Guermantes
- Sodome và Gomorrhe
- Cô gái bị cầm tù
- Albertine biến mất
- Thời gian tìm lại được

Nhã Nam
----

P/s: ngày 10 mới lãnh lương!  :whew:
I don't need no education.

Offline Pavelvnr

  • *
  • Juventini
  • Posts: 1,844
  • Joined: Oct 2004
  • Thanked: 416
  • Thanks: 408
  • Gender: Female
  • Người gác rừng bị lãng quên
« Reply #17 on: November 28, 2013, 05:20 PM »
Logged
Tiện thể tìm lại 2 cuốn này nè em:

1992, NXB Văn Học


2008, Nhã Nam - Hội Nhà Văn

Phan Lâm An - Y!M: Pavluchkaaa

Offline Pavelvnr

  • *
  • Juventini
  • Posts: 1,844
  • Joined: Oct 2004
  • Thanked: 416
  • Thanks: 408
  • Gender: Female
  • Người gác rừng bị lãng quên
« Reply #18 on: November 30, 2013, 09:04 AM »
Logged

Chủ nhân Nobel 2006 tự nhận là người cuồng viết


Orhan Pamuk thừa nhận như vậy trong cuốn sách ‘'Những màu khác' vừa được chuyển ngữ và phát hành ở Việt Nam.


Những màu khác - tập tiểu luận dày dặn tiết lộ phần nào con người Orhan Pamuk.



Orhan Pamuk (sinh năm 1952, người Thổ Nhĩ Kỳ) là tiểu thuyết gia có nhiều thành tựu. Năm 2003, ông nhận giải International IMPAC Dublin cho cuốn Tên tôi là đỏ. Năm 2004 cuốn Tuyết phát hành bản tiếng Anh và được ca ngợi là "ấn bản không thể thiếu của thời đại chúng ta". Cuốn hồi ký Istanbul của ông là một tác phẩm cuốn hút. Ông nhận giải Nobel văn chương năm 2006, ngoài ra còn sở hữu những giải thưởng danh giá tại nhiều quốc gia trên khắp thế giới. Cuốn Những màu khác được Pamuk xuất bản không lâu sau khi ông nhận giải Nobel.

Những người yêu văn chương từng biết Orhan Pamuk đã thành công với các tiểu thuyết Tên tôi là Đỏ, Pháo đài trắng, Cuốn sách đen. Nhưng ông là một nhà văn tham vọng, nên "phổ màu" của ông còn bao trùm lên cả lĩnh vực chính trị, hội họa cổ điển, tản văn ngắn.

Những màu khác là một tập tiểu luận của Pamuk. Phần lớn các bài trong sách lấy từ những bài viết ngắn hàng tuần của ông cho tờ Okuz (Bò đực), một tạp chí chuyên về chính trị và hài hước. Bên cạnh các bài viết từ báo chí, cuốn sách còn lấy từ nhiều nguồn khác và biên tập lại như những bài diễn văn nhận giải của Pamuk, những bài trả lời phỏng vấn... Cuốn sách được chia làm chín phần, là những nội dung khác nhau mà Orhan Pamuk bàn đến như: Sống và lo lắng, Sách và đọc sách, Chính trị, châu Âu và những vấn đề khác của việc là chính mình, Sách tôi là đời tôi, Hình ảnh và văn bản, Những thành phố khác, những nền văn minh khác...

Như Pamuk viết: "Đây là một cuốn sách làm từ các ý tưởng, hình ảnh và phân mảnh của cuộc đời chưa tìm thấy lối vào một trong các tiểu thuyết của tôi". Những bài viết trong sách là sự nối dài ngoạn mục, những ngoại truyện bổ sung cho các trang tiểu thuyết thành danh của ông. Ông thể hiện trong cuốn sách những khoảnh khắc, những ý tưởng, những cảnh đời thường nho nhỏ mà ông không đưa vào trong các tác phẩm hư cấu. Pamuk thể hiện sự thích thú với những bài tiểu luận này hơn với các tiểu thuyết của mình, ông cho rằng chúng có chứa những khoảnh khắc vụt hiện, khi chân lý được rọi sáng.

Tuy là một tuyển tập bài viết, song Những màu khác được xây dựng một khung sườn chắc chắn. Các chương trong từng phần được sắp xếp chặt chẽ, khi đọc có thể thấy rõ chân dung nhất quán về một văn nhân với sự thông minh, những quan sát tinh tế, kiến thức thông tuệ.

Orhan Pamuk có nhiều tiểu thuyết lớn được ngưỡng mộ, các tập hồi ký được yêu thích, và gần 500 trang của tập tiểu luận Những màu khác (chưa phải là tất cả những gì ông viết) minh chứng cho một năng lực làm việc dồi dào. Ông viết trong Những màu khác: "Tôi luôn luôn tin rằng ắt phải có một kẻ cuồng viết tham lam và gần như không thể lay chuyển thường trú trong tôi - một sinh vật không thể bao giờ viết cho đủ, kẻ lúc nào cũng biến cuộc sống thành từ ngữ - và để cho hắn ta vui lòng tôi cần phải tiếp tục viết".
body-2-7202-1385725352.jpg

Trong bài trả lời tạp chí Paris Review (là một phần trong cuốn Những màu khác), Pamuk cũng nói ông thường viết 10 tiếng một ngày. Ông coi viết lách như một trò chơi: "Đúng, tôi là người làm việc chăm chỉ. Tôi thích vậy. Có người nói tôi tham vọng, có lẽ trong đó cũng có vài phần sự thật. Nhưng tôi yêu những gì tôi làm. Tôi thích ngồi vào bàn như đứa trẻ chơi với đồ chơi của nó. Thực chất, đó là công việc, nhưng nó vui và cũng là trò chơi".

Bên cạnh những nhìn nhận của Pamuk về các vấn đề chính trị, nghệ thuật, cuộc sống, văn hóa đọc và cách đọc, Những màu khác còn tiết lộ nhiều điều về con người Orhan Pamuk qua những bài viết có tính tự sự. Những màu khác do dịch giả Lâm Vũ Thao chuyển ngữ, nhà xuất bản Văn học phát hành.

Hiền Đỗ
Vnexpress

Phan Lâm An - Y!M: Pavluchkaaa

Offline Exit

  • *
  • Juventini
  • Posts: 814
  • Joined: May 2005
  • Thanked: 112
  • Thanks: 41
« Reply #19 on: December 09, 2013, 12:05 AM »
Logged
Tiện thể tìm lại 2 cuốn này nè em:

1992, NXB Văn Học


2008, Nhã Nam - Hội Nhà Văn






Hôm nay Nhã Nam có lễ hội sách, đã rước em Nhà Swan về!
Mà anh đưa hình cuốn đầu tiên Đi tìm thời gian đã mất là cuốn gì vậy? Em tưởng là đó là tên nguyên bộ sách chứ!
Gái Đường Hoa phải lục hiệu sách cũ thôi anh, không thì chờ mấy bác dịch tiếp vậy.

Mà phải ngâm tới Tết Âm Lịch, để não và các thứ sạch chút mới đọc được!

P/s: Hôm nay tiện thể đang hỏi mua cuốn Trăm Năm Cô Đơn, tự nhiên có bạn kia đứng gần kéo tay áo, nói thích thì mình về nhà tìm rồi lấy cho, mình hỏi bạn bán mình giá bao nhiêu, bạn nói bạn cho mình luôn,  thật dễ thương! :-)
I don't need no education.

0 Members and 1 Guest are viewing this topic.