Ừm, về cổ thi VN, có rất nhiều danh nhân. Tôi rất thích thơ của Bà Huyện Thanh Quan và Hồ Xuân Hương. Bắt đầu từ Bà Huyện Thanh Quan nhé. Ai đó nếu như sưu tập được bài thơ nào thì cùng chia sẻ nhé Tiểu sử Bà Huyện Thanh QuanBà Huyện Thanh Quan tên thật là Nguyễn Thị Hinh. Bà sinh trưởng vào cuối triều Lê, đầu nhà Nguyễn. Bà là con của vị danh nho Nguyễn Lý (1755-1837) vốn là một cựu thần nhà Lê.
Chồng bà là Lưu Nguyên Ôn bút hiệu Lưu Ái Lan (có sách còn chép là Lưu Nghi hay Lưu Nguyên Uẩn). Ông mất năm 1847. Ông vốn người làng Nguyệt Áng, Thanh Trì (Hà Đông); đỗ cử nhân khoa Mậu Tí triều Minh Mệnh, và được bổ làm tri huyện Thanh Quan (nay thuộc Thái Ninh, tỉnh Thái Bình) nên bà được gọi là Bà Huyện Thanh Quan, đôi khi có người còn gọi bà là bà Lưu Ái Lan.
Năm 1849, bà vào kinh giữ chức Cung Trung Giáo Tập để dạy học cho các công chúa và hậu phi. Tám năm sau, 1857, bà xin phép về quê nghỉ hưu, công chúa Mai Am đã tặng bà bài thơ "Tống Ái Lan Thất Nguyễn Thị Lưu Hà Nội"
Thơ bà lúc còn sinh tiền hẳn là rất nhiều, nhưng nay chỉ còn dăm bài lưu lại.
(theo Nữ sĩ Việt Nam - Như Hiên Nguyễn Ngọc Hiền)Chơi chùa Trấn QuốcTrấn Bắc hành cung cỏ dãi dầu
Trạnh niềm cố quốc nghĩ mà đau
Mấy tòa sen tỏa hơi hương ngự
Năm thức mây phong nếp áo chầu
Sóng lớp phế hưng coi đã rộn
Chuông hồi kim cổ lắng càng mau
Người xưa cảnh cũ nào đâu tá
Khéo ngẩn ngơ thay lũ trọc đầuBà Huyện Thanh QuanDịch Nghĩa
-------------------------------
Bài này có nhiều tựa không thống nhất nhau: Chơi chùa Trấn Quốc, Trấn Bắc hành cung, Trấn Bắc hoài cổ .v.v.
Câu 8 quyển "Nữ sĩ Việt Nam" của Như Hiên Nguyễn Ngọc Hiền ghi là "Ngơ ngẩn lòng thu khách bạc đầu."
Chùa Trấn Bắc được xây vào đời Tiền Lý, tên là Khai Quốc Tự, đời Hậu Lê đổi là An Quốc Tự. Vua Lê Hy Tông (1680-1705) đổi lại là Trấn Quốc Tự. Sau lại đổi là Trấn Bắc Tự, và là hành cung (tức là nơi vua chúa nghỉ ngơi mỗi khi đi ra ngoài).