Tác giả Cung Trầm Tưởng :
Tên thật Cung Thúc Cần. Sinh năm 1932 tại Hà Nội. Vào Sài gòn năm 1949. Du học tại Pháp và Hoa Kỳ. Cựu trung tá không quân VNCH. Tù Cộng Sản 10 năm. Hiện sống tại Saint Paul, Minnesota, USA. Hội viên liên kết của Văn Bút Pháp.
Tác phẩm đã xuất bản :
Tình Ca (Cùng Phạm Duy, Nguyễn Cao Uyên)
Lục Bát Cung Trầm Tưởng (Con Ðuông)
Thám Hiểm Không Gian (dịch, Dziên Hồng)
Lời Viết Hai Tay (thơ 1999)
Chiều thơ Cung Trầm Tưởng
Một buổi giới thiệu hai thi phẩm “Lời Viết Hai Tay” và “Bài Ca Níu Quan Tài” của thi sĩ Cung Trầm Tưởng đã được nhóm thân hữu của ông tổ chức tại nhà hàng Hoa Biển 2, Saint Paul, ngày 26-8-01, và đã hái gặt được kết quả mĩ mãn.
Khoảng trên 200 người tham dự đã vào ngồi chật phòng ăn của Hoa Biển 2, khiến vài chục người đến chậm đã phải bỏ về. Tổng cộng lại, theo một giới thông thạo, đây là một buổi ra mắt thơ có số người tham dự cao nhất ở Minnesota, thuộc đủ mọi lứa tuổi, từ một cháu bé còn nằm nôi đến một lão phụ 75 tuổi.
Một đặc điểm khác là số các bạn thanh nam nữ đến tham dự là khoảng 60 người, một con số kỉ lục đối với một buổi ra mắt thơ tại Minnesota. Tuyệt đại đa số nhóm trẻ này, tuy đã được giáo dục, đào tạo, tốt nghiệp đại học ở Hoa Kì, nhưng vẫn không quên cái nguồn gốc Việt tộc của mình, được như thế là nhờ sự dạy bảo của các bậc phụ huynh của họ và sự trân quý lẫn lòng yêu mến của bản thân họ đối với truyền thống và nền văn học nghệ thuật Việt Nam.
Họ cảm thấy, như thi sĩ Cung Trầm Tưởng đã viết trong lời bạt của Bài Ca Níu Quan Tài, khi ông đề cập đến động cơ của phong trào làm thơ của người Việt Nam tại hải ngoại, “làm thơ trong tình huống (lưu vong) này căn bản là để tái lập cho bản thân mình sự toàn vẹn tinh thần đã bị phá vỡ (vì mặc cảm lạ nước lạ cái của thân phận lưu vong), và cũng đồng thời là một phương thức về nguồn tuyệt diệu, vì với việc sử dụng ngôn ngữ thơ Việt Nam, ta có được một con đường về gần nhất với cái tinh hoa của tiếng Việt mà cũng là của hồn Việt Nam”.
Với cái tên “Chiều thơ Cung Trầm Tưởng và những khúc phổ nhạc thơ ông”, buổi thơ nhạc giao duyên này gồm một chương trình biểu diễn phong phú nhưng cô đọng, phản ánh những mốc điểm quan trọng của hành trình thơ ca Cung Trầm Tưởng, gồm khoảng 15.000 câu thơ trải suốt một chiều dài nửa thế kỉ đầy đảo động của lịch sử Việt Nam hiện đại.
Khởi đầu, thi sĩ Mạc Ly Hương, người phối hợp chương trình, nói đến sự chuyển biến từ Tình ca đến Bài ca Níu Quan Tài của mạch thơ Cung Trầm Tưởng. Theo ông, đây là một chuyển cung bậc gắn liền với dòng chảy của lịch sử đất nước, ở đó tình yêu lứa đôi, nhuộm sắc dị chủng của những “Mùa Thu Paris”, “Chưa Bao giờ Buồn Thế” thuở nào, nay trở thành một thứ tụng ca dâng lên những người vợ - người tình Việt Nam tuyệt vời.
Tiếp đến, giáo sư Nguyễn Ngọc Diễm đưa ra những nhận xét tinh tế và độc đáo về hai thi phẩm “Lời Viết Hai Tay” và “Bài Ca Níu Quan Tài”, đặc biệt là sự hoà quyện vào nhau của hai dòng ai vãn và nộ khí ca mà ông đã phát hiện ở hai thi phẩm trên. Theo ông, với sự lồng vào cho thơ mình một kích thước phẫn nộ ắt phải có trước một lịch sử đất nước đầy bạo lực và bất công, Cung Trầm Tưởng đã mở ra cho thi ca Việt Nam một chân trời mới rộng hơn, can dự hơn, quyết liệt hơn và tích cực hơn. Những nhận xét uyên bác này của giáo sư Diễm đã được cử toạ nhiệt liệt hoan nghênh.
Sau phần phát biểu lí thuyết về thơ Cung Trầm Tưởng, chương trình biểu diễn thơ nhạc bắt đầu với bản “Vạn Vạn Lí”, thơ Cung Trầm Tưởng, nhạc Bùi Kim Cương, được cô Hoàng Kim Chi, người điều khiển dàn nhạc Việt Nhạc, viết hoà âm cho năm bè (nam) và phối khí cho một violin, một piano, một guitar, một saxophone (tenor) và một flute. Điệu nhạc được tấu lên trầm bổng, láy luyến, ngân nga, khi chậm khi nhanh, khi âm u huyền mặc, khi sôi bừng ngạo nghễ, phù điêu, hoành tráng, hành ca pha với ballad… Tất cả những chuyển động đa chiều này hoà quyện vào nhau và tỏ ra ứng hợp với cái khí hậu sử thi, bi hùng của nguyên tác thơ, đã được Cung Trầm Tưởng viết ra để vinh tụng những tù hữu đã tuẫn tử trong lao ngục cộng sản. Bản “Vạn Vạn Lí” đã gây xúc động mạnh cho giới cử toạ, được họ vỗ tay nhiệt liệt tán thưởng và yêu cầu hát lại một lần nữa, trước khi bế mạc buổi ra mắt thơ Cung Trầm Tưởng.
Những bản phổ nhạc thơ Cung Trầm Tưởng khác được biểu diễn là những sáng tác nổi tiếng của Phạm Duy, như “Tiễn Em” (thơ: “Chưa Bao Giờ Buồn Thế”), Mùa Thu Paris, Chiều Đông ( thơ: “Khoác Kín”), “Kiếp Sau”, “Bên Ni Bên Nớ” ( thơ: “Tương Phản”), và “Đường Vào Thiên Thu” do Bùi Kim Cương phổ nhạc.
Đình Luân nam tính, tình tứ một cách vững vàng với “Tiễn Em”. Phương Uyên sang quý với “Mùa Thu Paris”, với sự hỗ âm kín đáo mà hữu hiệu của Nguyên Phố, khiến bài nhạc có thêm chiều sâu. Quỳnh Trâm biết ứng xử với những chuyển động tinh tế, khá kiêu kì và giàu ấn tượng của một “Kiếp Sau” mà trước đây chỉ có Thái Thanh và Thái Hiền mới dám đụng tới. Triết Bình da diết, đa năng, gần gũi với cái khí hậu lãng mạn, vừa lí tưởng vừa man mác nhục cảm, khi lạnh như tha ma, khi ấm như căn phòng đôi vợ chồng trẻ của bài “Bên Ni Bên Nớ”. Quang Danh (cũng là giọng giới thiệu rất ấm của toàn ban nhạc Việt Nhạc) tê tái, hoang vắng, trầm mặc, hoài cảm với một “Chiều Đông” trên một vùng tuyết vắng bóng người yêu. Rồi Kiều Hữu Chiến nam trầm, ngân nga, sung thiệm, vương thoảng opera và nhạc nhà thờ, lung linh trữ tình với “Đường Vào Thiên Thu”.
Về diễn ngâm, Ái Trinh tha thiết, truyền cảm với “Bóng Mẹ Chiều Thu” và “Đường Vào Thiên Thu”, được hỗ đệm bởi tiếng đàn tranh trong, giòn, linh hoạt của Hồng Châu.Trước khi trình tấu, mỗi bài nhạc đều có một lời mào đầu (chapeau) do anh Nguyễn Trọng Cảnh viết và do Quang Danh đọc, để tóm lược ý nghĩa và hoàn cảnh của bài thơ được phổ nhạc. Và tất cả những cầm thủ như Quỳnh Trâm (violin), Thủy Tú (piano), Lê Phú (saxophone tenor kiêm flute), Hồng Châu (tranh), Châu Dũng (Guitar) được đặt dưới sự phối khiển của đầu đàn Hoàng Kim Chi, ngoài viết hoà âm và phối khí còn thủ guitar. Trong tay cô, nhạc cụ này đã trở thành linh hồn của nhóm Việt Nhạc, quán xuyến, đa hiệu, vừa dây vừa gõ, điều nhịp cho toàn ban, và tạo thêm âm tầng, âm sắc cho bài nhạc.
Cuối cùng là phần phát biểu của nhà thơ Cung Trầm Tưởng. Sau phần cám ơn cử toạ, ban tổ chức và nhóm Việt Nhạc đã làm cho buổi sinh hoạt văn hoá cộng đồng này được thành công mĩ mãn, ông đề cập đến một mục đích chính của buổi sinh hoạt là vinh danh người phụ nữ Việt Nam trong giai đoạn hiện đại của lịch sử đất nước.Ông nói, hình ảnh người phụ nữ Việt Nam hiện đại đã là một chủ đề quan trọng của hai thi phẩm “Lời Viết Hai Tay” và “Bài Ca Níu Quan Tài” của ông. Ngoài là một người vợ thủ tiết chờ chồng (bị cộng sản cách li trong những trại tù hẻo lánh), một người mẹ rất mực chăm thương con cái, tần tảo để chúng có miếng cơm độ nhật, họ còn là một nàng dâu hiếu thảo, như:
Đứng thế làm cha nuôi con dại
Để nhà có nóc lúc chồng xa
Em đứng thay nam tròn chữ hiếu
Thờ cha phải đạo, dưỡng mẹ già
Theo ông, họ còn là “một người tình trọn vẹn tuyệt vời”
Chải gió dầm mưa chưa hết hạ
Vai chồng em thử áo ngừa đông
Cắn chỉ luồn kim may gấp gấp
Vuông khăn còn ấm lệ đưa chồng
Và đây là “tác dụng mầu nhiệm của những lá thư (em) gửi cho chồng”:
Mỗi chữ thư em gầy nét liễu
Anh ôm trên núi, ấp trong khe
Em là lửa ấm đêm đông rét
Trận gió đem mưa giữa hạn hè
Ông nói, “tình yêu lứa đôi thuở nào, với Người em mắt nâu / Tóc vàng sợi nhỏ / Mong em chín đỏ trái sầu, nay khoác một kích thước trữ tình bao la như vũ trụ”:
(Em) Là nắng thu hanh, mây lững thững
Thông reo trầm vút đỉnh trời cao
Em giăng mộc thảo xanh triền núi
Li cách lòng anh khỏi lũ trào
Vẫn với chữ của ông, “Rồi tất cả âm dương kết tụ thành một hạt gạo trắng nõn, biểu tượng của một luyến ái quan tích cực, có khả năng bồi tổn và cứu rỗi thật là kì diệu”:
Biển động thuyền lay em vững lái
Anh thương hạt gạo xẻ làm đôi
Tình nghĩa em như sau bão thổi
Bãi yên bể lặng, cát về bồi “Bởi vì là đá của tượng, như nàng Tô Thị, em đã đi vào huyền sử ngay lúc sinh thời”:
Phố ấy Đồng Đăng trùng điệp núi
Đá mòn thành tượng của tình chung
Em đứng ôm con, bồng mưa nắng
Sắt son, dũng cảm đến Kì Cùng
Rồi ông kết thúc với một ước nguyện, “để được mãi mãi ở với em, anh sẽ làm một hoá thân”:
Mai sau ngủ gốc cây sồi
Làm thiên thu chiếc miếu ngồi thờ em
Bài phát biểu trên của nhà thơ Cung Trầm Tưởng được cử toạ nhiệt liệt vỗ tay tán thưởng nhiều lần. Sau đó họ yêu cầu ban Việt Nhạc biểu diễn lại các bản “Vạn Vạn Lí”, “Đường Vào Thiên thu”, “Tiễn Em”, và “Mùa Thu Paris”.Về truyền thông đại chúng, có sự tham dự của báo “Ngày Nay”, “Bút Việt”, của “Việt Minnesota Radio” và “Voice of America”.